THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS (BÁCH CHU NIÊN)

THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS (BÁCH CHU NIÊN)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

NHÂN DỊP KỶ NIỆM MỘT TRĂM NĂM THÔNG ĐIỆP TÂN SỰ

1891 – 1991

LỜI GIỚI THIỆU

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Dịch theo bản tiếng Pháp CENTESIMUS ANNUS La   Documentation   Catholique  n.2029, 02.6.1991 Libreria Editrice VATICANA 1991.

 

THÔNG ĐIỆP MỚI MUỐN ĐÁP ỨNG NHỮNG NIỀM MONG ĐỢI CỦA XÃ HỘI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

  1. Trong tháng 5 này, chúng ta sẽ mừng kỷ niệm bách chu niên ngày công bố thông điệp Rerum Novarum (RN). Như anh chị em đã biết, tôi muốn đánh dấu ngày kỷ niệm đó bằng một văn kiện, một thông điệp mới mà tôi sẽ cho công bố vào ngày mai. Khi soạn thảo văn kiện này, tôi đã kín múc từ kho tàng truyền thống và từ đời sống của Giáo hội để vạch ra một số đường hướng và viễn tượng khả dĩ đáp ứng được những vấn đề xã hội ngày một nghiêm trọng hơn như thấy trong thời đại chúng ta. Quả thực, Giáo hội nhìn lại quá khứ không phải để tránh né những thách đố của hiện tại, nhưng để từ những giá trị đã được tôi luyện và từ sự suy niệm về những gì Truyền thống đã làm và hiện vẫn còn đang làm trong Giáo hội, Giáo hội rút ra được một nguồn năng lực mới và một niềm xác tín mới cho hoạt động mà Giáo hội phải tiếp tục đảm nhận giữa con người. Giáo hội đang đối diện với những thách đố của thời đại, một thời đại khác xa so với thời của Đức Lêô XIII, nhưng Giáo hội luôn hành động theo cùng một Thần Khí: Thần khí của Thiên Chúa, Thần khí mà Vị tiền nhiệm của tôi đã vâng theo khi Người cố gắng trả lời cho những niềm hy vọng và mong đợi của thời đại Ngài. Cả tôi nữa, trước những hy vọng và mong đợi của thời đại ngày nay, tôi cũng cố gắng làm như Vị tiền nhiệm của tôi.
  2. Một biến cố hình như chi phối thời điểm gay go mà chúng ta đang sống: Châu Âu và thế giới đang bước vào giai đoạn cuối của một chu kỳ lịch sử.

Hệ thống Mác xít đã bị phá sản, lý do của sự phá sản này lại đúng là những lý do mà thông điệp RN đã nêu ra một cách đanh thể gần như có tính cách tiên tri. Trong sự phá sản của cái quyền lực về ý thức hệ và kinh tế ấy, thứ quyền lực làm như muốn đè bẹp, thậm chí loại trừ cảm thức tôn giáo ra khỏi ý thức của con người, bên trên tất cả những nguyên nhân xã hội và chính trị, Giáo hội nhìn thấy nơi đó sự can thiệp của Thiên Chúa quan phòng, Đấng mà duy một mình Người dẫn dắt và điều hành lịch sử.

Tuy nhiên, công cuộc giải phóng liên hệ đến biết bao dân tộc, biết bao Giáo hội lẫy lừng và những cá nhân không được biến thành một niềm tự mãn tai hại hay một thái độ đắc thắng không chính đáng.

Hệ thống nói trên đã tỏ ra lỗi thời ít là một phần; nhưng trong những miền khác nhau trên thế giới, sự nghèo khổ cùng cực nhất vẫn tiếp tục hoành hành; có những dân tộc mà toàn bộ bị tước mất những quyền sơ đẳng và không làm sao có được những phương tiện cần thiết để đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người. Ngay tại những nước giàu, người ta cũng nhận thấy một sự rối loạn về cuộc sống, một sự bất lực để sống và đánh giá đúng đắn về ý nghĩa của cuộc sống và ngay khi sung túc về của cải vật chất, vẫn thấy có một sự vong thân và đánh mất nhân cách ở rất nhiều người; những con người này cảm thấy mình bị giản lược thành chức phận của một bánh xe trong cơ chế sản xuất và tiêu thụ và không tìm được phương thế để khẳng định phẩm giá của mình là những con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa.

Một hệ thống đã đến ngày tàn, phải; nhưng cũng không vì thế mà giải quyết được những vấn đề, những hoàn cảnh bất công và đau khổ là những điều trước đây đã từng nuôi dưỡng hệ thống ấy. Sau sự thất bại của một giải pháp không thỏa đáng, vấn đề mà giải pháp nói trên đã tìm cách giải quyết vẫn luôn hiện thực và cấp bách hơn.

Trong thông điệp mới này, Giáo hội không chỉ trình bày vấn đề ấy cho lương tâm của toàn thể nhân loại, nhưng còn đưa ra một đề nghị nhằm đạt tới những giải pháp tương xứng. Đó là lặp lại lời yêu cầu phải có công bình xã hội, tình liên đới giữa những người lao động, phẩm giá của nhân vị, không cam chịu cảnh bóc lột và sự nghèo khổ, không bao giờ chối bỏ chiều kích siêu việt của con người, vốn ước muốn, lại còn phải được quyền đầu tư công sức của mình vào công cuộc kiến tạo xã hội.

  1. Học thuyết của Giáo hội về vấn đề xã hội vẫn luôn luôn nhìn nhận quyền tư hữu của mỗi cá nhân đối với những phương tiện sản xuất, và Giáo hội đã nhận thấy một quyền tư hữu như thế sẽ giúp bảo vệ được quyền tự do trước mọi hình thức đàn áp có thể xảy ra. Lại nữa, sự phân chia quyền sở hữu cho nhiều người giúp cho mọi người muốn thỏa mãn những nhu cầu của mình, phải dựa vào sự hợp tác với người khác, đang khi đó sự trao đổi cần thiết trong xã hội sẽ được điều phối bằng những khế ước mà trong đó ý muốn tự do của người này phù hợp với ý muốn tự do của người kia. Khác với nền kinh tế độc tài, được hoạch định và tập trung, nền kinh tế tự do và vận hành theo những động lực xã hội giả thiết là các chủ thể thực sự có tự do và chính họ phải là những người đảm nhận những trách nhiệm rõ ràng, phải thành thực tôn trọng những hợp đồng đối với những người cộng tác và lúc nào cũng phải để ý đến công ích.

Bởi vậy, thật phải lẽ khi nhìn nhận giá trị luân lý của quyền tự do buôn bán và trong đó bao hàm cả quyền tự do kinh doanh, quyền “tổ chức nhịp cầu gặp gỡ” giữa nhu cầu của người tiêu thụ và những nguồn cung cấp có thể đáp ứng được những nhu cầu đó nhờ việc tự do thương lượng. Về điểm này, để đối lại với những lý thuyết tập thể hóa, Đức Lêô XIII đã đòi phải có quyền sáng kiến cá nhân trong khuôn khổ của việc phục vụ cần đem lại cho cộng đồng.

  1. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo đã luôn luôn và hiện vẫn còn từ khước việc đề cao thương mại như một bộ máy điều hòa tối thượng và như kiểu mẫu hay tổng hợp của đời sống xã hội. Có một điều gì đó cần phải được trả cho con người bởi lẽ họ là con người, bởi phẩm giá của họ và bởi họ được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, không cần biết họ có mặt trên thị trường hay không, họ sở hữu những gì, và do đó có thể bán những gì, và có phương thế nào để mua sắm. “Cái điều gì đó” mà tôi vừa nói không bao giờ được phép lãng quên, trái lại nó đòi hỏi sự tôn trọng và liên đới; hai điểm này là biểu hiện xã hội của tình yêu và là thái độ duy nhất thích hợp trước một nhân vị. Có những nhu cầu của con người không tiếp cận được với thị trường đó vì những ngăn trở tự nhiên hay xã hội, nhưng lại chính là những nhu cầu cần được thỏa mãn.

Thực vậy, cộng đồng quốc gia và quốc tế có bổn phận giải đáp cho những nhu cầu này bằng cách trả lời thẳng, chẳng hạn trong trường hợp có một ngăn trở không thể vượt qua được, hoặc nếu có thể, thì tạo ra những phương thế giúp tiếp xúc trực tiếp với thị trường, với thế giới sản xuất và tiêu thụ.

Quyền tự do kinh tế là một khía cạnh của tự do con người, không được tách rời khía cạnh này khỏi những khía cạnh khác và nó phải góp phần làm cho các nhân vị được thể hiện trọn vẹn nhằm thiết lập một cộng đồng nhân loại đích thực.

  1. Hẳn nhiên phải khẳng định quyền tư hữu cùng một trật với quyền hưởng dùng mà mọi người đều có đối với những của cải trên mặt đất. Những ai đang sở hữu của cải phải luôn nhớ rằng của cải đó là để cho mọi người cùng hưởng và vì thế, đang khi những của cải này bảo đảm tự do của họ, thì các của cải đó cũng bảo vệ và làm triển nở tự do của những người khác nữa. Ngược lại, khi một người làm mất đi chức năng bổ túc những thiết yếu của của cải thì như thế họ đánh cắp những của cải này từ tài sản chung, tức là đi ngược lại với mục đích mà vì đó của cải đã được trao cho họ. Không một nền kinh tế tự do nào có thể vận hành lâu bền và đáp ứng được những điều kiện của một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn, nếu nó không được quy định bởi những cấu trúc chặt chẽ về mặt pháp lý và chính trị, và nhất là, nếu nó không được nâng đỡ và “tiếp sức” bởi một lương tâm vững vàng về luân lý và tôn giáo.

Lập trường này vừa lý tưởng lại vừa thực tế, ăn rễ sâu nơi chính bản chất con người. Thật vậy, “con người là một tạo vật chỉ có thể hoàn thành chính mình cách trọn vẹn nhờ việc tự do trao hiến chính mình” (GS, 24). Con người là một chủ thể độc đáo mà người ta không sao chép lại được và cũng không bao giờ có thể nhận chìm trong một khối nhân loại mơ hồ dù rằng con người chỉ hoàn thành trọn vẹn vận mệnh của mình một khi họ biết vượt lên trên những lợi lộc hẹp hòi của cá nhân để liên kết với những con người khác bằng rất nhiều liên hệ. Gia đình đã nảy sinh theo cách đó. Xã hội cũng đã nảy sinh theo cách đó.

Trong cấu trúc nội tại của mình, chính việc lao động đề cao cả quyền tự lập của nhân vị lẫn nhu cầu gắn bó cùng người khác trong lao động. Con người lao động cùng với người khác, con người thiết lập tương quan với người khác bằng lao động. Nhưng tương quan này có thể là đối nghịch, cạnh tranh hoặc đàn áp, nhưng bên cạnh đó còn có tương quan hợp tác và cùng thuộc về một cộng đồng liên đới.

Hơn nữa, con người không chỉ lao động cho riêng mình nhưng còn cho người khác, khởi đầu từ chính gia đình của mình rồi đến cộng đồng địa phương, lan rộng đến quốc gia và toàn nhân loại. Chính thực tại đó là điều mà lao động phải phục vụ: chính trong lao động, sự trao hiến mình cách tự do và phong phú được biểu lộ. Bởi vậy, trong khi khẳng định mối liên hệ hỗ tương chặt chẽ giữa quyền tư hữu và quyền hưởng dùng của mọi người đối với của cải, học thuyết của Giáo hội về xã hội không làm gì khác hơn là khôi phục hoạt động kinh tế trong khung cảnh cao đẹp và bao quát hơn của ơn gọi chung của loài người.

  1. Lịch sử đã luôn luôn chứng kiến những nỗ lực mới nhằm kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn và công bình hơn trong khung cảnh hợp nhất, cảm thông và liên đới. Nhiều nỗ lực trong số đó đã thất bại trong khi một số khác chống lại chính con người.

Bản chất con người vốn có khuynh hướng liên kết thành xã hội, nhưng đồng thời hình như cũng bộc lộ những dấu hiệu chia rẽ, thiếu sót trong bổn phận và thù hận. Nhưng cũng chính vì thế mà Thiên Chúa, Cha của hết thảy mọi người, đã sai Con Độc Nhất của Người, Đức Giêsu Kitô, đến trần gian để vượt thắng những nguy cơ đe dọa ấy và để làm biến đổi tâm trí con người bằng việc tặng ban ân sủng.

Anh chị em thân mến,

Để kiến tạo một xã hội công bằng hơn và xứng đáng với con người hơn, một sự dấn thân qui mô trên bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa quả là cần thiết. Nhưng như thế chưa đủ! Sự dấn thân có tính chất quyết định phải xuất phát từ chính cõi lòng của con người, đụng chạm đến chỗ thâm sâu nhất của lương tâm con người, là nơi mà con người tự mình quyết định. Chỉ với mức độ như thế, con người mới có thể tiến hành một cuộc thay đổi sâu xa và tích cực nơi chính bản thân mình và đó là bước khởi đầu vững chắc để góp phần làm biến đổi và cải thiện toàn xã hội.

Trong tháng này là tháng được dành riêng để tôn sùng Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng ta hãy nguyện xin Mẹ nâng đỡ những nỗ lực của mọi người chúng ta, cũng như sự dấn thân liên đới của hết thảy chúng ta, đồng thời xin Mẹ trợ giúp chúng ta kiến tạo được trong thế giới này những cơ cấu công bằng hơn và đầy tình huynh đệ nhằm đạt đến một nền văn minh mới: nền văm minh của tình liên đới và yêu thương.

GIOAN PHAOLÔ II

 

THÔNG ĐIỆP BÁCH CHU NIÊN (Centesimus Annus)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

GỬI CHƯ HUYNH TRONG HÀNG GIÁM MỤC, CÁC LINH MỤC, CÁC GIA ĐÌNH TU TRÌ, CÁC TÍN HỮU THUỘC GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ MỌI NGƯỜI THIỆN CHÍ NHÂN DỊP KỶ NIỆM MỘT TRĂM NĂM BAN HÀNH THÔNG ĐIỆP TÂN SỰ (Rerum Novarum)

 

1891 – 1991

 

 

Gioan Phaolô II, giáo hoàng, kính chào và gửi phép lành Tòa thánh đến chư huynh đáng kính và các con thân mến!

 

NHẬP ĐỀ

 

1.       Tầm quan trọng lịch sử của thông điệp RN.

Bách chu niên kỷ niệm ngày ban hành thông điệp bắt đầu bằng những từ “Tân sự” (RN)[1]1 của vị tiền nhiệm của tôi, Đức Cố Giáo hoàng khả kính Lêô XIII, đánh dấu một thời điểm rất quan trọng trong thông điệp hiện nay của lịch sử Giáo hội cũng như trong triều đại Giáo hoàng của tôi. Thực vậy, thông điệp đó đã được đặc biệt lưu ý kỷ niệm trong thời gian từ giáp năm 40 cho đến 90, qua các văn kiện long trọng của các vị Giáo hoàng: có thể nói vận mệnh lịch sử của thông điệp RN đã được đánh dấu từng giai đoạn qua các văn kiện khác, hướng sự chú ý đến RN và đồng thời hiện đại hóa thông điệp đó[2].

Cũng thế, nhân kỷ niệm 100 năm, thể theo nguyện vọng của đông đảo Giám Mục, các cơ quan của Giáo hội, các trung tâm đại học, các vị lãnh đạo nghiệp đoàn và người lao động với tư cách cá nhân, hoặc như phần tử của các hiệp hội trước tiên tôi muốn cùng với toàn thể Giáo hội tuyên dương công nghiệp của vị Giáo hoàng khả kính này và “văn kiện bất tử”[3] của Người. Tôi cũng muốn nói lên rằng dòng nhựa sống dồi dào dâng lên từ gốc rễ đó đã không cạn khô theo năm tháng, nhưng ngược lại, trở nên phong phú hơn. Điều đó được minh chứng qua các sáng kiến thuộc nhiều lãnh vực khác nhau được thực hiện trước, đồng thời, hoặc theo sau cuộc lễ này, những sáng kiến của các Hội đồng Giám Mục, các tổ chức quốc tế, các đại học và các viện hàn lâm, các nghiệp đoàn và các tổ chức hay các nhân khác trong nhiều miền trên trái đất.

2.       Kỷ niệm bách chu niên.

Thông điệp này góp phần vào các cuộc lễ đó để tạ ơn Thiên Chúa, Đấng mà “mọi ân huệ tốt lành, mọi phúc lộc hoàn hảo từ Người ban xuống” (Gc1,17), vì Người đã sử dụng một văn kiện Tòa Thánh Phêrô cách đây 100 năm để thực hiện nhiều việc tốt lành và tỏa chiếu nhiều luồng sáng trên Giáo hội cũng như trên thế giới. Cuộc lễ chúng ta cử hành hôm nay liên hệ tới thông điệp của Đức Lêô XIII, nhưng đồng thời cũng liên hệ tới các thông điệp và các văn kiện khác của các vị tiền nhiệm của tôi, đã góp phần hướng sự chú ý tới thông điệp đó và khai triển ảnh hưởng của nó qua nhiều năm, tạo thành một học thuyết được gọi là “học thuyết xã hội”, “giáo huấn xã hội” hay còn được gọi là “huấn giáo về xã hội” của Giáo hội.

Hai thông điệp được ban hành trong triều đại giáo hoàng của tôi đã qui hướng về giáo huấn đó, giáo huấn vẫn giữ được giá trị của nó: Laborem exercens về lao động của con người, và Sollicitudo rei socialis về những vấn đề hiện nay trong việc phát triển con người và của dân tộc[4].

3.       Đọc lại thông điệp RN.

Giờ đây tôi muốn đề nghị “đọc lại” thông điệp của Đức Lêô XIII, và mời gọi “nhìn lại quá khứ” về chính bản văn thông điệp để tái khám phá các nguyên tắc nền tảng phong phú đã được thành hình trong thông điệp này nhằm giải quyết những vấn đề người lao động. Nhưng tôi cũng mời gọi giờ đây hãy nhìn về những “sự việc mới” quanh chúng ta và, có thể nói, chúng ta đang chìm ngập trong đó. Những sự việc mới này rất khác với những “sự việc mới” ở thập niên cuối thế kỷ trước. Sau cùng tôi mời gọi “hướng về tương lai” khi mà chúng ta đã thoáng thấy thiên niên kỷ thứ ba của kỷ nguyên kitô giáo, tuy đầy dẫy những ẩn số, nhưng cũng đầy hứa hẹn. Những ẩn số, những điều còn chưa hiểu và những hứa hẹn mời gọi chúng ta vận dụng trí tưởng tượng và sáng tạo, đồng thời thúc đẩy chúng ta, các môn đệ Chúa Kitô, Đấng là người “Thầy duy nhất” (x. Mt 23,8), lãnh nhận trách nhiệm tỏ bày con đường công bố sự thật, và thông ban sự sống là chính Người (x. Ga14,6).

Làm như thế, chúng ta không chỉ tái khẳng định giá trị vĩnh cửu của giáo huấn đó, nhưng còn cho thấy ý nghĩa đích thực của truyền thống Giáo hội, một truyền thống luôn sống động và tích cực, xây dựng trên nền tảng bởi các tổ phụ của chúng ta trong đức tin, và đặc biệt trên điều mà “các tông đồ truyền lại cho Giáo hội”[5] nhân danh Đức Kitô: Người là nền tảng, và “không ai có thể đặt nền tảng nào khác” (x. 1Cr 3,11).

Bài này đã được xem 783 lần!

Pages ( 1 of 12 ): 1 23 ... 12>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]