Giả như mọi người tuân theo những luật sống này, không những sự sản xuất mà lại cả những sự thâu góp và tiêu dùng của cải ở dưới thế ngày nay đã rất lộn xộn, cũng sẽ kịp trở về trật tự và sự phân phối của công lý.
Trong thực tế, tính vị kỷ là sự nhục nhã và tội trọng nhất của đời ta, sẽ phải nhượng bộ trước luật êm dịu và mạnh sức của một tổ chức điều độ do Công Giáo gây nên. Luật ấy bảo rằng: trước hết hãy tìm nước Chúa và sự công lý, rồi chắc thể nào Chúa cũng sẽ ban dư dật đủ mọi của cải thế tục. Vì đó là lời Chúa đã hứa công khai, hợp với lòng vô cùng khoan dung quảng đại của Người.
2. Vai trò quan trọng của đức bác ái.
- Những cố gắng cải tạo xã hội nói trên, muốn chắc thành công, thì phải căn cứ vào luật bác ái, vốn bảo đảm sự trọn lành.
Bao nhà cách mạng trứ danh cũng thiếu khôn ngoan và lầm to, vì họ bắt buộc ai nấy cũng phải tuân cứ luật công bằng giao hoán, rồi kiêu hãnh khinh thường sự hợp tác của đức bác ái.
Đành rằng đức bác ái cũng không thể nào thay thế cho đức công bằng được.
Không ai lấy cớ thực hành đức bác ái, mà chối những phận sự đức công bằng bắt buộc ai cũng phải đảm nhận. Nhưng dầu mọi người ở dưới thế được thỏa mãn theo đúng quyền lợi, phạm vi bác ái cũng còn rộng rãi, nói được là vô bờ bến. Thực hành đức công bằng một cách tỉ mỉ, thì có lẽ xã hội sẽ không còn lý do nào cho các giai cấp tương tranh. Nhưng đức công bằng vẫn không đủ sức nhiệm mầu khiến mọi người đồng tâm nhất trí. Vậy tất cả mọi cơ cấu quyết gây dựng hòa bình, và sự cộng tác giữa loài người, dầu tổ chức tinh xảo bao nhiêu, chỉ hiệu lực và đứng vững, khi mọi công dân thật đồng tâm với nhau ở trong tâm hồn. Kinh nghiệm dạy rằng thiếu sự đồng tâm ấy, bất cứ tổ chức nào cũng không kết quả được.
Sự cộng tác chặt chẽ thân mật giữa nhân loại, cùng chung theo đuổi công ích, không thể nào có được, nếu loài người không ý thức rằng: họ chỉ là phần tử của một gia đình rộng lớn cùng một Cha Cả trên trời. Họ chỉ là thành phần của nhiệm thể Chúa Kitô, mà từng người hân hạnh được làm chi thể. Như vậy nhỡ ra có ai đau khổ, thì toàn thân thể xã hội cũng mới chia phần đau khổ.
Nhờ đó kẻ giàu sang người cầm quyền đã quen lãnh đạm với những anh em tội nghiệp và xấu số từ lâu, mới tỏ lòng thông cảm và nảy ra lòng bác ái thực sự. Họ sẽ động lòng thương lắng nghe sự khiếu nại hợp lý của dân. Họ sẽ động lòng dung tha những lầm lạc hay lỗi lầm của các dân bần cùng.
Đàng khác các công nhân sẽ thành thực bỏ lòng căm hờn hay ghen tương, mà các nhà chuyên môn xúi giục các giai cấp xã hội kình địch nhau đã gây nên. Họ sẽ tình nguyện đóng vai trò tân xã hội mà Chúa quan phòng đã chỉ định cho. Họ sẽ cho vai trò xã hội của họ là rất quan trọng, bởi họ đã hiểu rằng: mọi người đều có một phận sự thì đều góp thêm phần hữu ích vào công ích. Họ sẽ noi gương theo gót Chúa Kitô, Đấng bẩm sinh là Con Chúa, nhưng đã không ngại đóng một vai công nhân ở đời và rất hân hạnh vì được gọi là “con bác thợ mộc”.
* Công việc thì rất nặng nề.
- Tinh thần Phúc Âm lại tỏa ra khắp thiên hạ, là một tinh thần điều độ và bác ái, thì ta mới hy vọng và vững tâm hy vọng, xã hội sẽ được phục hưng lại như ta hằng tận tâm mong ước: hòa bình Chúa Kitô sẽ hiện ra trong nước Chúa Kitô.
Sự phục hưng và hòa bình ấy là mục đích ta đã theo đuổi ngay từ lúc mới được tin sẽ được tấn phong giáo hoàng, và ta vẫn cương quyết thực hành mục đích ấy với cả một lòng cha ân cần săn sóc đoàn con. Anh em cũng theo ý Thánh Linh Chúa, mà hợp tác với ta chỉ huy Giáo hội của Chúa. Vậy xin anh em góp một phần với ta trong công việc khẩn cấp và cần thiết đời ta với một lòng hăng hái nhiệt thành khả kính. Ta thành thực tán tạ anh em và tất cả những linh mục và những giáo hữu là cộng tác viên hùng dũng của anh em, vì họ càng ngày càng góp một phần rất lớn và rất đáng khen trong công cuộc vĩ đại ấy. Họ là những con thân yêu nhất của ta; những nhân viên của công giáo tiến hành đã tình nguyện hiến thân với ta, để giải quyết vấn đề xã hội, tùy theo Giáo hội do Thiên Chúa lập ra đã có quyền và phận sự lo đến.
Ta tha thiết yêu cầu những người ấy, trong Chúa Kitô đừng tiếc gì công lao, đừng để trở lực nào thắng họ, và ngày một tỏ mình dũng cảm hơn, sức lực mới mẻ hơn. Công việc ta đề nghị rất nặng nề. Ta thừa biết trong đủ mọi giai cấp xã hội, cấp trên, cấp dưới họ sẽ phải thắng biết bao trở lực. Nhưng chớ ngã lòng. Đặc tính riêng của các kitô hữu, là xông pha vào những trận chiến nguy hiểm; hoàn tất những công việc lớn, cho xứng danh hiệu là tinh binh của Chúa Kitô, và hằng theo sát Người.
Đã đặt hết tin tưởng ở Chúa Kitô toàn quyền mở rộng đường cứu rỗi cho cả nhân loại, chúng ta hãy tùy theo sức, để ủng hộ những linh hồn tội nghiệp đã lạc xa Chúa… Chúng ta hãy cứu họ khỏi những thế tục đã xâm chiếm tâm hồn họ, và ta hãy tập cho họ quen hướng về những của quý đời sau. Công việc ấy có thể hoàn thành dễ hơn ta thường tưởng tượng. Dầu những người trụy lạc, cũng giữ trong lòng như một ngọn lửa âm ỉ dưới bóng tro tàn những năng lực siêu nhiên lạ lùng, chứng tỏ họ tự nhiên là những tâm hồn kitô hữu. Phương chi những người lầm lạc vì hoàn cảnh, hay bị lừa dối, tất còn giữ trong lòng một nguồn lực mãnh liệt hơn nữa.
- Ngoài ra đời ta bây giờ không thiếu những điểm tốt khiến ta mừng rỡ và tin chắc rằng: xã hội sắp được chỉnh đốn trong Chúa Kitô. Tỉ dụ như những tổ chức công nhân kitô hữu đang xuất hiện, nhất là phong trào thanh niên lao công kitô hữu đang xiết chặt hàng ngũ vì đã đáp lời Chúa gọi, và hằng ôm ấp trong lòng một tham vọng quý hóa, là khôi phục lại cho Chúa Kitô một tâm hồn anh em đồng nghề. Ta cũng hết sức mừng rỡ, khi thấy bao người trong các ban chấp hành những tổ chức công nhân đã hy sinh tư lợi, để thành tâm gây phúc lợi cho anh em. Họ đã quyết chí hòa giải những khiếu nại hợp lý của công nhân, với lợi ích chung của công nghệ họ phụ trách. Dầu bị tình nghi, dầu gặp phải bao trở lực họ cũng bền tâm theo đuổi mục đích cao siêu ấy. Sau hết những thanh niên tài trí lỗi lạc, hay khá giàu sang, sắp chiếm lấy một địa vị khả quan trong giới công chức xã hội cũng đã càng ngày càng đông và càng mải miết tìm hiểu vấn đề xã hội hiện tại. Họ là một mối hy vọng rực rỡ, vì nay mai chắc chắn họ sẽ tận tâm với phận sự cải hóa xã hội.
* Đường lối nên theo.
- Anh em đáng kính, như vậy thời thế hoàn cảnh vạch sẵn cho ta đường lối phải bước đi. Như mấy đời trước, đời ta cũng bị tục hóa theo tha dân. Muốn hấp dẫn mọi giai cấp xã hội đã chối Chúa chóng được trở về đường chính, anh em phải tuyển mộ và huấn luyện ngay ở giữa họ một số người thông cảm tâm trí của họ, xu hướng của họ, để làm phụ tá cho Giáo hội, mà lại đối đãi với họ trong một tình nghĩa huynh đệ thiết tha. Những tông đồ ưu tiên, những tông đồ trực tiếp của giới lao động sẽ là công nhân, những tông đồ của giới kỹ nghệ hay thương mại sẽ là những người chuyên về kỹ nghệ hay thương mại.
Những tông đồ giáo dân thuộc giới lao động, hay chủ nghiệp này, chính anh em và các linh mục phục quyền anh em, sẽ phải ân cần tìm kiếm, khôn ngoan tuyển lựa, đào tạo và giáo huấn. Linh mục lại phải đảm nhiệm một trọn trách rất tinh tế. Các chủng sinh đang dọn mình phụng sự Giáo hội, cũng phải tận tâm học hiểu những nguyên tắc xã hội của Hội Thánh. Còn những người được anh em lựa chọn để trực tiếp phụ trách mục vụ ấy, sẽ phải có óc công bằng rất tinh tế, đủ sức nhiệm để vững tâm chống cự những khiếu nại quá khích bất công của bất cứ ai, lại phải nổi tiếng là người điều độ và khôn ngoan tránh được đủ mọi sự quá khích. Hơn thế nữa, họ cần thấm nhuần lòng bác ái của Chúa Kitô. Chỉ đức bác ái mới mạnh sức và đủ êm dịu để chinh phục tâm trí người ta cho công bằng và chính nghĩa. Kẻ bền chí theo đường lối ấy đã thành công nhiều rồi. Không ai hồ nghi được đó là đường lối ai cũng phải dũng cảm bước chân theo.
Còn những linh mục được lựa chọn để đảm nhiệm trọng trách ấy, thì ta tha thiết yêu cầu họ hãy tận tâm huấn luyện những cộng tác viên của họ. Để hoàn tất công việc linh mục và tông đồ ấy, trước hết họ phải dùng mọi phương tiện, do nền giáo dục Công Giáo cung cấp cho họ.
Giáo dục thanh niên.
Hội đoàn kitô hữu.
Hội học về những huấn lệnh của đức tin.
Hơn hết họ phải tôn trọng và chuyên dùng những cuộc tĩnh tâm, là phương thế linh nghiệm nhất để cải thiện đời sống cá nhân và xã hội, Ta đã nói rồi, và ta nhắc lại nữa: họ phải dùng phương kế ấy để huấn luyện các cộng tác viên của họ.
Những cuộc tĩnh tâm này rất hữu ích cho giáo dân, và nhất là cho công nhân. Vì thế ta tha thiết yêu cầu anh em hãy tổ chức những cuộc tĩnh tâm ấy là trường học đào tạo tinh thần, trong lò lửa nồng nàn của Thánh Tâm Chúa Giêsu đầy tình yêu. Từ ở những trường học ấy, không những xuất ra những giáo dân kiểu mẫu, mà lại là những tông đồ chân chính, chuyên môn làm việc trong đủ mọi giai cấp xã hội.
Từ ở những trường học ấy như các tông đồ xưa, từ ở nhà tiệc ly, họ sẽ xuất ra với một đức tin mạnh mẽ, với một ý chí anh hùng chống được đủ mọi sự bắt bớ, vì chỉ còn một mối lo là xuất công mở nước Chúa Kitô cho rộng.
Không bao giờ bằng bây giờ Giáo hội cần những tinh binh kitô hữu ấy, để tận tâm hiệp lực bảo vệ gia đình khỏi những tai hại sẽ phải xảy ra. Nếu họ khinh bỉ học thuyết Phúc Âm, để mặc chế độ hiện tại giầy đạp đạo tự nhiên và đạo thánh Chúa, rồi tiến triển mãi. Giáo hội Chúa Kitô được xây đắp trên những nền tảng bất di bất dịch, dầu hỏa ngục cũng không thắng nổi, nên Người không thấy gì đáng là khiếp sợ.
Giáo hội cũng có kinh nghiệm quá khứ bảo đảm tương lai. Dầu những cơn giông tố dữ dội nhất, trải qua lịch sử Giáo hội cũng đã thắng vượt hết, mà lại thắng một cách vô cùng vẻ vang.
Nhưng Giáo hội là một người mẹ âu yếm đàn con. Khi thấy đoàn con lâm nguy, về những cơn giông tố đang đe dọa ức triệu người phải thiệt hại lớn, thì Giáo hội sốt ruột và xót dạ. Nhỡ ra những cơn giông tố ấy bùng nổ, thì bao nhiêu người sẽ bị thiệt hại về phần hồn, và bao nhiêu linh hồn được Chúa Giêsu cứu chuộc bằng giá máu Người sẽ phải bại hoại.
Vì thế, ta phải dùng trăm nghìn phương cách để đề phòng cho nhân loại khỏi sa vào những tai ương ấy. Mọi công việc, mọi cố gắng, mọi kinh nghiệm liên lỉ nhiệt tâm của ta, thảy đều quy về mục đích ấy.
Nhờ ơn Chúa giúp, do chúng ta cầm trong tay thân phận loài người tương lai được, chúng ta đừng để con cái thế gian tỏ mình khôn ngoan hơn chúng ta; đã nhờ ơn Chúa toàn ái phú ban, mà trở nên con cái của ánh sáng.
Quả thật, ta thấy họ rất khôn ngoan, tuyển lựa và huấn luyện cán bộ, để truyền bá tà thuyết của họ, làm cho phong trào của họ ngày một mở rộng hơn, trong đủ mọi tầng lớp xã hội và ở đủ mọi địa phương trên hoàn cầu. Hễ khi nào họ phải giao chiến với Giáo hội, ta thấy họ quên bỏ mọi sự xích mích riêng, để xiết chặt hàng ngũ và tận tâm hiệp lực theo đuổi mục đích của họ bằng cách thống nhất lực lượng.
* Giáo dân phải đoàn kết và cộng tác với nhau một cách chặt chẽ thân mật.
- Giáo dân nhiệt thành không quản gì công lao khó nhọc để gây dựng bao công cuộc vĩ đại, hoặc trong phạm vi xã hội kinh tế, hoặc trong phạm vi văn hóa và tôn giáo. Điều ấy ai cũng đã rõ. Nhưng vì những lực lượng Công Giáo đã quá phân tán, thì những công cuộc đáng khen kia đâm ra yếu lực và thiếu hiệu quả.
Vậy ta yêu cầu mọi người thiện chí, hãy đoàn kết lại chặt chẽ dưới quyền chỉ huy của các chúa chiên phụ trách Giáo hội. Nhờ vậy họ mới ra mặt trận thánh thiện và ôn hòa của Chúa Kitô; giao chiến và toàn thắng. Yêu cầu mọi người phục quyền Giáo hội, sống dưới ánh sáng của Giáo hội, cũng ra giao chiến, tùy theo năng lực, tài sức riêng, địa vị riêng, để góp một phần vào việc canh tân xã hội, mà chính Đức Lêô XIII trong bức thông điệp RN đã nêu khởi.
Không chút thiên vị những ý kiến riêng, một cứ sẵn sàng bỏ luôn những ý kiến sáng suốt hơn cả, vì công ích đáng quý hơn.
Họ phải đề cao hơn hết và ở khắp mọi nơi nước Chúa Kitô, làm cho Chúa Kitô hiển trị khắp thiên hạ.
Vì Chỉ có Chúa Kitô đáng được vinh danh toàn trị muôn đời. Vậy để toàn thể anh em và các con yêu quý hợp lại trong đại gia đình Công Giáo, Chúa đã uỷ cho ta phụ trách, luôn luôn đủ sức hoàn tất công việc ấy;
Để các công nhân và các lao động công giáo, ta yêu quý riêng vì được Chúa quan phòng uỷ thác cho ta săn sóc làm một với chủ nhân, được luôn luôn tận tâm với phận sự;
Ta hân hạnh đem hết tình cha con, ban phép lành Tòa Thánh.
Tại La Mã, gần Tòa Thánh Phêrô, 15,3,1931.
Năm thứ 10 ta được thụ phong Giáo hoàng.Piô XI.
Về việc xây dựng trật tự xã hội
15-05-1931
Thông Điệp TỨ THẬP NIÊN (QUADRAGESIMO ANNO)
Lời mở đầu
- Bức thông điệp Rerum Novarum (RN) đã xuất hiện được bốn mươi năm rồi. Thế giới Công Giáo chuẩn bị mừng kỷ niệm một cách hết sức long trọng. Ai cũng đầy lòng biết ơn tòa thánh vì văn kiện đáng ghi nhớ này. Một văn kiện minh chứng lòng nhiệt thành của Đức Tiên Giáo hoàng đối với giáo mục của Ngài. Một văn kiện rất quan trọng đã được chuẩn bị từ trước, trong bao bức thông điệp khác: về gia đình, về phép hôn phối, về nền tảng xã hội nhân quyền, về nguồn gốc chính quyền, về những mối tương quan giữa Giáo hội và xã hội quốc gia, về nghĩa vụ công dân của giáo dân, về cách biện bác chủ nghĩa xã hội, về các tà thuyết do chủ nghĩa tự do cá nhân và bao nhiêu tài liệu khác, giãi bày lý tưởng xã hội của ngài.
Nhưng bức thông điệp “RN” trổi vượt mọi văn kiện khác, vì hai lý do: thứ nhất vì là một bức thông điệp rất hợp thời, không đời nào cần thiết bằng đời ta bây giờ. Thứ hai vì bức thông điệp ấy giải quyết mọi vấn đề đời sống cộng đồng nêu lên. Là những vấn đề tóm tắt trong “vấn đề xã hội.”
- Một bức thông điệp rất hợp thời.
- Thế kỷ XIX xế chiều, sự phát triển kinh tế, sự tiến hóa của kỹ nghệ ở hầu hết các dân tộc đã phân chia xã hội thành hai giai cấp. Giai cấp này gồm thiểu số, nhưng toàn những người giàu sang tha hồ hưởng dụng mọi sáng kiến khoa học tiên tiến. Giai cấp kia gồm đa số, nhưng toàn công nhân khốn cực, không thoát được cảnh bần cùng. Tình trạng thê thảm ấy, kẻ dư của thì chịu đựng một cách rất dễ dàng, họ cho rằng: Đó là hậu quả không tránh được của những luật kinh tế tự nhiên. Nên họ lầm tưởng công cuộc bác ái san bằng được mọi bất công, mà những pháp luật nhân tạo thường bỏ mặc và nhiều khi lại còn che chở nữa.
- Nhưng công nhân đã quá khổ cực, vì tình trạng ấy. Sau một thời gian cam chịu, họ quyết trút bỏ gánh nặng nề ấy, không muốn gánh vác lâu hơn nữa.
Người thì sôi nổi lên vì những lời thúc đẩy họ chỗi dậy, mà đảo lộn xã hội từ ở tận nền móng. Người thì không chịu trôi theo những phong trào ấy, vì họ đã được giáo dục theo đạo Chúa Kitô. Nhưng dầu sao họ cũng đồng ý về một điểm khẩn cấp là “phải cải hóa xã hội tận cội rễ”.
- Đó cũng là ý chí của bao nhiêu Kitô hữu, của giáo sĩ hay giáo dân đã đem lòng bác ái dũng cảm mà tìm trăm ngàn phương cách, làm giảm bớt sự khốn cực bất công của dân chúng. Họ không chịu nhận sự chênh lệch quá đỗi trong cách phân công chia của, như là sự tự nhiên Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan đã tiền định cho nhân loại. Thành ra họ cứ thành thực tìm những môn thuốc linh nghiệm hoặc để sửa chữa những tệ đoan của xã hội hiện tại, hoặc để đề phòng cho xã hội khỏi lâm vào những tai hại khủng khiếp hơn nữa.
- Nhưng lý trí con người mù mịt yếu đuối. Những người thiện chí hoặc bị xua đuổi như thể họ chỉ là những nhà cách mạng đáng sợ; hoặc bị chia rẽ vì có sự bất đồng ý ngay giữa họ, nên họ cứ lưỡng lự giữa những lập trường khác nhau. Như vậy họ không biết phải chọn lấy đường nào? Trong những sự mâu thuẫn khiến mọi người không ai đồng ý với ai thì hòa bình thế giới lâm nguy. Thành ra lần nữa họ đưa mắt nhìn về Tòa thánh Phêrô là kho lẫm chân lý, tự nhiên phát ra những lời cứu chuộc hằng chảy tràn khắp thiên hạ. Một phong trào rộng lớn chưa bao giờ từng thấy, lôi cuốn họ về với “Đấng đại diện Chúa Kitô ở dưới thế”. Vô số người trí thức, kỹ nghệ, công nhân tha thiết đòi hỏi những nguyên tắc vững chắc, họ có thể thích dụng để thoát khỏi mọi sự thắc mắc mà đứng một mình không ai giải quyết được.
- Vì trí khôn ngoan Đức Giáo hoàng đã gẫm thế sự trước mắt Chúa lâu năm, Ngài cũng cầu vấn bao nhiêu nhân vật lỗi lạc, Ngài cũng chăm chú tìm hiểu vấn đề đủ mọi mặt. Rồi ý thức sứ vụ tông đồ Ngài đảm nhiệm; thì Ngài mới sợ nếu im tiếng mãi là tỏ mình chểnh mảng trong phận sự.
Ngài dùng linh quyền giáo huấn Chúa đã uỷ thác cho mà quyết định ban huấn dụ này cho Giáo hội Chúa Kitô nói riêng, và cho toàn thể nhân loại nói chung.
- Ngày 15 tháng 5 năm 1891, tiếng Tòa Thánh mà cả thế giới đã mong nghe từ lâu, đã vang dội khắp cả thiên hạ; một tiếng vang không chút run rẩy trước thời cuộc gay go, mà lại không yếu đi chút nào vì tuổi tác cao; một tiếng vang mạnh bạo đã định hướng mới cho cả nhân loại phải noi theo trên địa vực xã hội hiện tại.
- Học thuyết xã hội gồm tắt trong bức thông điệp RN.
- Anh em thừa biết học thuyết khả kính, đã được giãi bày trong bức thông điệp “RN” rồi chứ ! Bức thông điệp ấy thật đáng ghi nhớ muôn đời.
Đại Đức Tiên giáo hoàng, động lòng trước thân phận bao nhiêu người hạ lưu trong xã hội, nói được là đa số; nhưng dầu vô tội cũng phải sống trong cảnh khốn cực đầy rủi ro. Ngài dũng cảm quyết chí bênh vực công nhân tội nghiệp sống trơ trọi, không ai bảo hộ mà lại bị thời thế vô tình đẩy vào tay những chủ nhân vô nhân đạo, chỉ biết cạnh tranh đua giàu khoe sang. Ngài chẳng tin tưởng ở chủ nghĩa tự do, và cũng không hy vọng nơi chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tự do đã tỏ mình hoàn toàn bất lực, không giải quyết được vấn đề xã hội. Còn chủ nghĩa xã hội lại đề nghị một giải pháp còn tệ hơn cả tật nạn nó tìm sửa chữa. Vì nó mà xã hội nhân loại càng ngày càng lâm nguy.
- Vậy căn cứ vào giáo quyền và thiên chức đặc biệt Ngài được Thiên Chúa uỷ cho, là bảo vệ tôn giáo và mọi quyền lợi liên quan đến tôn giáo, thì Ngài đã tin chắc rằng vấn đề xã hội không thể nào giải quyết được một cách phải lẽ “ngoài ảnh hưởng Giáo hội và tôn giáo, nhờ những nguyên tắc bất di bất dịch của đạo nghĩa chính trực, và đạo Chúa mạc khải”. Đức Tiên Giáo hoàng đem hết linh quyền vững chắc của Ngài mà ấn định và tuyên bố công nhiên:
a). Nghĩa vụ và quyền lợi riêng của chủ nhân và công nhân: của tư bản và cần lao trong xã hội.
b). Phận sự riêng của Giáo hội, của chính phủ và của mọi công nhân, trong việc giải quyết vấn đề xã hội tương tranh này.
Tiếng của Ngài đã vang dội khắp thiên hạ không phải là vô ích đâu.
- Thiên hạ nghe đến thì cảm phục tạ ơn. Giáo dân phục quyền Giáo hội đã đành. Nhưng còn bao nhiêu người khác, hoặc vô tín ngưỡng, hoặc đã lạc đường chính, cũng đã nêu lên vấn đề kinh tế xã hội, trong phạm vi tìm hiểu (speculation) và pháp lý.
Mừng nhất là các công nhân kitô hữu. Họ cảm thấy giáo quyền trổi vượt mọi thế quyền trên mặt đất, đã thông cảm và bênh vực quyền lợi của họ. Những người vị tha đã tìm cải thiện công nhân từ lâu, nhưng đã bị chế nhạo, ngờ vực, nhiều khi lại bị phản đối công khai nữa, nay đã lại phấn khởi lên.
Bức thông điệp đã được ai nấy đua nhau đón nhận một cách long trọng nghiêm chỉnh. Đến nỗi dân nào nước ấy cũng tìm trăm cách kỷ niệm hằng năm bằng những lễ ghi ơn lừng lẫy.
- Những huấn thị của Đức Lêô XIII thì rất cao thượng và khả kính; nên mới được thiên hạ đồng thanh nghênh tiếp như thế. Nhưng tiếc thay cũng đã từng có những nhà trí thức, gồm có cả giáo dân, náo động bất mãn. Người thì sinh lòng hồ nghi, người thì vấp ngã trước một học thuyết mới lạ như vậy. Những ngẫu nhiên do chủ nghĩa tự do dựng lên, đều bị lật đổ. Bức thông điệp ấy không quản ngại gì đến những thành kiến quá khứ. Còn đối với tương lai nó khởi xướng một phong trào chưa có ai nghĩ tới. Những người còn giữ óc tồn cổ, thì đều khinh chê học thuyết xã hội, và những học thuyết cao siêu này. Kẻ khác thì cảm phục lý tưởng xã hội của Đức Giáo Hoàng là một lý tưởng rực rỡ, nhưng lại cho rằng chỉ là một ảo tưởng không thể nào thực hành được. Ai cũng có thể mong chờ, nhưng không ai hy vọng thực hiện nó được.
- Mục đích bức thông điệp mới.
- Vì thế anh em khả kính đang khi thế giới náo nhiệt mừng lễ “đệ tứ thập chu niên” của bức thông điệp “RN”, thấy các công nhân kitô hữu ở khắp tứ phương tuôn đến thành thánh Lamã, thì Ta thừa dịp rất thuận tiện này mà nhắc lại những ân huệ phi thường mà bức thông điệp ấy đã đem lại cho cả nhân loại nói chung. Học thuyết canh tân kinh tế xã hội của Đức Lêô XIII thì thật vĩ đại, nên đã bị bao người ngờ vực cảnh cáo. Vậy kèm theo sau, Ta sẽ bênh vực và giảng giải một vài điểm chính chưa được hiểu rõ. Sau hết, Ta sẽ luận xét chế độ kinh tế hiện tại và phi bác chủ nghĩa xã hội. Đã định rõ tệ đoan xã hội ngày nay phát nguồn tại đâu, thì Ta sẽ chỉ vạch đường lối duy nhất, ai cũng phải theo để tu bổ lại xã hội cận kim, tức là cải tạo phong tục thế giới theo lý tưởng Phúc Âm.
Bức thông điệp này sẽ chia ra làm ba phần tùy theo các vấn đề Ta mới nêu lên. Rồi Ta sẽ dành toàn thư để tìm một giải pháp hợp lý hợp thời.
I. Những hiệu quả bởi bức Thông điệp “RN”
- Trước khi nhập đề tìm giải quyết điều thứ nhất theo ý Ta đã định, Ta không khỏi quên lời thánh Ambrôsiô khuyên rằng: “Trọng nhất trong những phận sự của Ta là tạ ơn Chúa liên lỉ ”. Nhớ đến những ân huệ quý hóa bức thông điệp của Đức Lêô XIII đã đem lại cho Giáo hội và cả nhân loại; trước tiên Ta phải đội ơn Chúa không ngừng, dầu chỉ muốn lược thảo những ân huệ đó sơ qua, thì thật Ta cũng phải thuật lại lịch sử xã hội, trải qua bốn mươi năm vừa rồi. Nhưng Ta có thể tóm tắt mọi điểm chính, tùy theo ba phương dược, mà Đức Tiên Giáo Hoàng đã đề nghị để hoàn tất công việc canh tân xã hội, ngài đã đảm nhiệm.
1. Sự can thiệp của Giáo hội.
- Trước tiên Đức Lêô XIII đã định rõ những điều thế giới có quyền đòi ở Giáo hội. Ngài viết: (x. RN 13)
Phần lý thuyết:
Những tài liệu quý giá này, Giáo hội không bao giờ bỏ hoang đâu. Mà cứ khai khẩn mãi, để gây thái bình cho xã hội. Đức Lêô XIII, và những giáo hoàng kế tiếp Người đã dùng lời nói và bút mực mà nhiệt thành truyền bá học thuyết kinh tế xã hội tóm tắt trong bức thông điệp “RN”; các ngài không bao giờ ngừng thúc đẩy dân nước thực hành và áp dụng học thuyết ấy, vào thời thế hoàn cảnh xã hội hiện tại. Lúc nào các ngài cũng tỏ lòng nhiệt thành và tỏ tình nghĩa phụ tử với những người bần cùng yếu đuối. Vì các ngài là chúa chiên [HB1] dũng cảm, thì các ngài cũng mạnh sức bảo vệ các dân đen. Theo bản ý của Tòa Thánh, cũng đã không thiếu gì những Giám mục sáng suốt nhiệt thành vừa trình bày giải pháp vừa áp dụng học thuyết xã hội của Đức Lêô XIII cho các dân nước đều hưởng lợi.
- Bởi thế Ta không ngạc nhiên gì khi thấy bao người trí thức, giáo sĩ và giáo hữu hết sức quý chuộng và nhiệt tâm phổ biến những kỷ luật kinh tế xã hội của Giáo hội tùy theo những đòi hỏi của thời thế. Mục đích của họ là áp dụng vào những trường hợp hằng thay đổi. Những nguyên tắc bất di bất dịch của Giáo hội về đời sống cộng đồng của nhân loại.
- Lấy bức thông điệp của Đức Lêô XIII làm căn bản và tỏa sáng học thuyết xã hội Công Giáo, hiện ra và phát triển càng ngày càng phong phú hơn. Những người ưu tú, đêm ngày lưu tâm đến việc tối hệ trọng này, buộc ta phải gọi họ là những người phụ tá của Giáo hội. Học thuyết xã hội này không giam kín vào những trường học mờ tối đâu, trái lại nó đã ra mặt trận chiến đấu công khai. Một bằng cớ rõ ràng là những công trình vĩ đại của các đại học Công Giáo, các hàn lâm viện, các chủng viện các hội nghị thường gọi là “những tuần lễ khảo cứu về xã hội” đã được tổ chức không biết bao lần rồi và đã kết quả bất ngờ. Thêm vào đó là những hội học, những sách vở báo chí muôn mặt đã được phổ biến khắp nơi một cách rất hợp thời.
Bức thông điệp của Đức Lêô XIII hữu ích như vậy, không phải là hết đâu. Những bài học đó, đã dần dần tiêm nhiễn luôn cả tâm hồn những người thiện chí không được hân hạnh hợp nhất với Giáo hội, vì chưa phục quyền duy nhất của Người.
- Như vậy những nguyên tắc Giáo hội đã đề cập về xã hội, đã dần dần hóa nên sản nghiệp chung của nhân loại. Ta hết sức mừng rỡ, khi thấy những chân lý vĩnh cửu, Đức Tiên Giáo hoàng đã công bố mỗi ngày một được đề cập và bảo vệ ráo riết hơn trong các sách vở báo chí Công Giáo và không Công Giáo, và trong cả các quốc hội và tòa án.
Hơn thế nữa, sau một cuộc thế chiến kinh khủng, các nhà chính trị ở các cường quốc đã quyết định cải tạo đời sống xã hội để xây dựng hòa bình thế giới cho kiên cố. Vậy những nguyên tắc họ đề cập để tu bổ lại nền cần lao cho công bằng và bác ái, đều giống những nguyên tắc và huấn dụ của Đức Lêô XIII, đến nỗi ta có cảm tưởng rằng: những nguyên tắc ấy bởi bức thông điệp “RN” trích ra. Thực sự bức thông điệp ấy đáng ghi nhớ. Ta có thể áp dụng vào nó, lời tiên tri của Isaia đã nói: “Đó là một biệt hiệu đã được dựng lên cho các dân nước thiên hạ”.
Phần thực hành.
- Những nguyên tắc Đức Lêô XIIIb đã đề cập đến, ai cũng đã tìm hiểu sâu rộng trong phạm vi lý thuyết, và nhờ đó đã tiêm nhiễm tâm trí xã hội. Nhưng quý hơn nữa là những nguyên tắc ấy đã được áp dụng vào thực tế. Trước hết bao người thiện chí đã nỗ lực nâng cao địa vị sinh hoạt của các công nhân. Dầu giai cấp lao động càng ngày càng thêm đông, dầu đại kỹ nghệ ngày một phát triển thêm, giới lao động cũng không chiếm lấy được một địa vị khả quan hơn trong xã hội. Nên công nhân vẫn trơ trọi mà lại bị khinh chê nữa. Ta nói về giới lao động mà các linh mục triều hay tu dòng đã tìm giải phóng không cứ gì những công việc mục vụ mà họ gánh vác từ trước dưới quyền chỉ dẫn của các giám mục; những linh mục ấy đã tận tâm với các công nhân, thì công nhân hưởng lợi rất nhiều, vì linh mục bền chí, thì tinh thần công giáo của công nhân lại cao lên. Nhờ đó, công nhân mới ý thức chức vụ. Họ ý thức phận sự và quyền lợi giai cấp của họ. Họ lại đủ năng lực mà tiến bước trên đường công lý, tiến triển, đến nỗi họ đứng dậy hướng dẫn được anh em đồng nghề.
Kết quả là các công nhân kiếm được sinh kế dồi dào và vững chắc hơn. Theo lời Đức Tiên Giáo hoàng khuyên nhủ, không những các việc bái ái từ thiện được phát triển, mà lại theo ý sở nguyện của Giáo hội, nhờ sự hấp dẫn của các linh mục. Ta đã thấy những công cuộc ủng hộ và viện trợ công nhân càng ngày càng được thiết lập nhiều, và đoàn tụ đủ mọi người nông dân và lao động…
2. Sự can thiệp của chính quyền.
- Chính quyền đã bị chủ nghĩa tự do chế ngự trong phạm vi bảo vệ trật tự và luật pháp. Đức Lêô XIII mạnh bạo phá vỡ những biên giới chật hẹp ấy. Ngài công bố rằng: chính quyền phải lợi dụng luật pháp và mọi cơ cấu xã hội để thiết lập một hiến pháp và một nền hành chánh đủ năng lực để phát triển sự thái bình công và tư. Đã đành chính quyền phải nhường chỗ cho từng cá nhân và từng gia đình đủ quyền tự do hành động. Nhưng với hai điều kiện cần thiết; thứ nhất là giữ công ích nguyên vẹn; thứ hai là giữ quyền bất khả xâm phạm của tư nhân. Đã đành chính quyền phải bảo vệ cả cộng đồng xã hội, nhưng chính quyền cũng phải bảo vệ từng công dân tự nhiên hợp với nhau thành cộng đồng xã hội. Vậy trong việc bảo vệ từng công dân, chính quyền phải săn sóc riêng những người bần cùng và yếu đuối (x. RN 19).
- Ta không dám chối rằng, trước khi bức thông điệp của Đức Lêô XIII xuất hiện, thì bao chính phủ cũng đã cung cấp những sự cần thiết thượng khẩn của giới lao động rồi; họ đã bài xích những tai hại các công nhân dầu vô tội cũng đã phải chịu từ trước. Nhưng chỉ có khi nào Tòa Thánh can thiệp, tiếng Đức Giáo Hoàng vang dội khắp thiên hạ, là khi ấy các nhà cầm quyền ý thức sứ vụ và tận tâm hiệp lực mới bắt đầu thực hành một chính sách xã hội rộng rãi hơn.
- Những định lý của chủ nghĩa tự do đã từ lâu năm làm cho chính quyền tỏ ra bất lực. Vậy đang lúc những định lý giả dối này bắt đầu lung lay, bức thông điệp RN hiện ra. Ngay từ ở trong đại chúng, một phong trào mãnh liệt bùng nổ, vừa đòi hỏi vừa ủng hộ một chính sách xã hội hiệu lực hơn. Chính quyền lại được những giáo dân ưu tú mạnh sức chống đỡ, vì chính họ đã đề cập bộ luật mới này trong các quốc hội xưa nay. Hơn nữa, nhờ bao linh mục thấu triệt học thuyết xã hội của Đức Lêô XIII can thiệp, thì mới có nhiều luật lệ xã hội được đưa ra cho các quốc hội phê chuẩn. Cũng vì các linh mục ấy ân cần thúc đẩy, những luật lệ ấy đã được thi hành vẹn toàn.
- Nhờ những người thiện chí tận tâm hiệp lực như vậy, một bộ pháp luật mới đã xuất hiện. Đời trước không ai biết đến, ngày nay ai cũng hưởng lợi. Những quyền lợi bất khả xâm phạm công nhân đã có sẵn, vì nhân phẩm hay chức vị kitô hữu của họ, được tôn trọng cho cân xứng. Những điều luật bảo vệ giới lao động ấy, thì bao quát cả địa vị sinh hoạt của công nhân nam nữ; tuổi trẻ, sức khỏe, năng lực, gia đình, nhà ở, xưởng máy, tiền lương và bảo hiểm những sự rủi ro của cần lao.
- Ta không nói được những điều luật ấy lúc nào và nơi nào cũng hoàn toàn thích ứng với những nguyên tắc Đức Lêô XIII đề cập. Nhưng không ai chối được rằng bức thông điệp RN đã có ảnh hưởng đến. Thành ra sự cải thiện địa vị sinh hoạt của công nhân, phần lớn là do bức thông điệp quý giá của Đức Lêô XIII, là một bức thông điệp đáng ghi nhớ muôn đời.
3. Sự cộng tác của chủ nhân và công nhân.
- Đức Tiên Giáo hoàng lại sáng suốt chứng minh rằng: chính các chủ nhân và công nhân có thể góp phần hiệu nghiệm trong việc giải quyết vấn đề xã hội, nhờ những công cuộc vừa để nâng đỡ kẻ bần cùng vừa tìm hòa giải hai giai cấp. Trong những công cuộc ấy, cần thiết nhất theo ý Ngài là những nghiệp đoàn hoặc riêng cho công nhân, hoặc chung cho cả công nhân và chủ nhân. Đức Giáo hoàng viết vài lời hoặc ca tụng hoặc củng cố những hội đoàn ấy. Ngài định nghĩa bày tỏ lý do, sự hợp thời, quyền lợi, nghĩa vụ và các luật lệ vốn điều khiển những tổ chức như vậy.
Những huấn thị này quả thực là rất hợp thời. Thời kỳ đó, ở nhiều quốc gia, chính quyền thụ hưởng chủ nghĩa tự do, nên ác cảm với những hội đoàn bảo vệ lao động, nhiều khi họ lại phản đối công khai nữa. Họ tình nguyện chuẩn y ủng hộ những hội đoàn tương đương được sáng lập trong những giai cấp xã hội khác. Nhưng nhất định chối không cho lao công hợp đoàn, đó là một thái độ bất công rõ ràng, vì quyền họp đoàn là quyền tự nhiên của con người mà họ chối không cho lao động là kẻ cần phải họp đoàn mới tự cứu mình khỏi bị những người mạnh quyền áp bức.
Ngay trong những giới Công Giáo, những cố gắng hợp đoàn của công nhân cũng bị tình nghi là những mưu mô của phái xã hội và bọn cách mạng.
a. Hội đoàn lao công
- Những huấn lệnh uy quyền của Đức Lêô XIII, đã có công phá mọi trở lực, giải tán mọi tình nghi. Nhưng vinh hạnh nhất là theo những huấn lệnh ấy, bao nhiêu người lao công Kitô hữu đã đua nhau tổ chức nghiệp đoàn, theo lời Đức Lêô XIII đã chỉ dạy cho. Nhờ đó họ giữ lại trên đường chính những công nhân bị lôi cuốn quyết ghi tên vào những tổ chức do chủ nghĩa xã hội lập ra rồi tự đắc chỉ có họ mới bảo vệ và ủng hộ người bần cùng, kẻ bị áp bức.
- Về việc lập các hội đồng công nhân Kitô hữu, bức thông điệp “RN” có câu rằng: (RN 42,43).
Đâu đâu cũng có linh mục hợp tác với giáo dân lập các nghiệp đoàn nói trên. Các ngài đáng khen vì đông mà lại rất tận tâm với học thuyết của Đức Lêô XIII mà họ đã quyết thực hành. Nhờ những hội đoàn ấy, có cả một thế hệ công nhân kitô hữu được huấn luyện chu đáo, tìm hòa nhịp trong đời sống những đòi hỏi công nghề với những tín ngưỡng công giáo của họ. Nhờ đó họ được đủ sức mạnh để bảo vệ phận sự và quyền lợi thế tục của họ một cách cương quyết vừa thích hợp với công lý. Họ lại đem lòng thành thực hợp tác với các giai cấp xã hội khác để phục hưng lại xã hội theo lý tưởng Phúc Âm.
Bài này đã được xem 1013 lần!