Học thuyết và huấn lệnh của Đức Lêô XIII nhờ đó mà được thực hiện theo trăm ngàn thể thức tùy thời thế hoàn cảnh đòi hỏi bắt buộc. Chỗ này thì chỉ lập ra một tổng hội theo đuổi mục đích của Đức Lêô XIII đề cập, nơi khác vì hoàn cảnh cần lao chuyên biệt, hội đoàn này thì bảo vệ quyền lợi và bổn phận công nhân trong phạm vi cần lao; hội đoàn kia thì lại chuyên lo tổ chức việc công nhân nâng đỡ nhau trong phạm vi kinh tế. Còn về tôn giáo và luân lý hay những sự cần tương đương như vậy thì có những hội đoàn khác chuyên lo.
- Tổ chức thứ hai này ưu thắng hoặc ở những chỗ luật pháp kinh tế hay xã hội nghiêm khắc bắt buộc, hoặc ở những chỗ công nhân phải đối phó với những phong trào phá rối trật tự bằng một mặt trận thống nhất, cấm ngặt không được lập nghiệp đoàn lao công Kitô hữu công khai. Trong những trường hợp ấy, công nhân Công Giáo hầu như bắt buộc phải nhập vào những nghiệp đoàn trung lập, nhưng tôn trọng công bằng bác ái và quyền tự do sống theo lương tâm và luật Giáo hội. Các Giám mục phải kiểm soát và quy định các hội đoàn ấy có thích hợp với thời thế hoàn cảnh, mà có nguy hiểm gì cho đạo Công Giáo chăng. Nếu có đủ điều kiện các ngài có quyền rộng phép cho các công nhân Công Giáo nhập vào tùy theo những luật lệ và những huấn lệnh của Đức Piô X, Đức Tiên Giáo Hoàng khả kính của chúng ta. Theo những huấn lệnh ấy, điều cần thiết nhất là bên cạnh các công đoàn này, phải lập những hội đoàn Công Giáo luôn luôn tận tâm huấn luyện công nhân cho họ chóng trở nên những Kitô hữu thấu đạo, thông luân lý, và hằng tiêm nhiễm tinh thần Phúc Âm vào mọi hành động sinh hoạt của họ. Nhờ vậy các hội đoàn kia có lẽ sẽ gây ảnh hưởng rộng ra ngoài cả phạm vi đời sống riêng của các cá nhân.
b. Những hội đoàn hành động trong các giai cấp khác.
- Hơn thế nữa, những huấn dụ khôn ngoan, những huấn lệnh rõ rệt của Đức Lêô XIII về quyền tự do hội họp, đã được thích dụng trong những giai cấp không phải là lao động. Bức thông điệp của ngài đã gây dịp rất thuận tiện cho bao nhiêu hội đoàn hữu ích khác được thành lập và phát triển mạnh trong giới nông dân. Giới trung lưu và nhiều tổ chức tương đương khác, hằng dung hòa nguồn lợi kinh tế với phận sự giáo dục con người.
c. Công đoàn chủ nhân.
- Nhưng ta không thể nào nói thế, về các hội đoàn chủ nhân hay chủ nghiệp mà Đức Tiên Giáo Hoàng đã hết sức mong ước. Ta cũng rất tiếc vì những hội đoàn ấy còn hiếm quá. Cái đó không phải là chỉ lỗi tại người ta đâu. Về đàng ấy đời Ta đầy những trở lực chẳng mấy ai thắng nổi. Ta biết những trở lực ấy, mà lại lượng giá cho cân xứng nữa. Nhưng Ta cũng mong ước những trở lực ấy trong một ngày gần đây sẽ tan đi. Ta đón mừng và thành thực ca tụng những cố gắng hùng dũng của bao người thiện chí, đáng rút kinh nghiệm về đàng ấy. Chắc thể nào chẳng bao lâu nữa, họ sẽ được hái quả tốt đẹp hơn cả những hoa quả họ đang mong.
Bức thông điệp RN là hiến chương của lao động.
- Những ân huệ bởi bức thông điệp RN Ta chỉ lược qua vậy thôi, không diễn tả hết được. Những hiệu quả vô số và quan trọng do bức thông điệp ấy gây nên chứng tỏ rõ rằng chủ nghĩa xã hội của Đức Lêô XIII không phải chỉ là một ảo tưởng rực rỡ nhưng không ai thực hành được đâu. Đó là một lý tưởng rất đẹp. Đức Tiên Giáo Hoàng đã rút sẵn ở trong nguồn sống của Phúc Âm, một học thuyết hiệu lực có lẽ chưa giải quyết hết mọi vấn đề xã hội hiện tại, nhưng ít nhất cũng giảm bớt được tai hại của một xã hội tương tranh kịch liệt gây nên. Bức thông điệp của Đức Lêô XIII là một hạt giống đã được gieo rắc một phần nào trong những đồng ruộng phì nhiêu. Bằng chứng rõ ràng là những hiệu quả rất đẹp mà nhờ ơn Chúa, Giáo hội và cả nhân loại đã gặt hái trong 40 năm vừa qua.
- Với thời gian, bức thông điệp RN đã dần dần hiện ra là hiến chương của mọi hành động Công Giáo trong phạm vi xã hội. Ai khinh thường bức thông điệp được cả thế giới long trọng kỷ niệm năm nay, thì rõ ràng là kẻ khinh thường những sự mà họ chưa biết. Hoặc kẻ ấy chưa hiểu những điều tai đã nghe, hoặc là người hiểu biết hết, nên đáng bị kết án là kẻ vong ân và bất công.
Cũng với thời gian, đã có những đoạn trong bức thông điệp, hoặc bị người ta hồ nghi không biết phân giải thế nào, hoặc khiến người ta hoang mang không biết áp dụng làm sao cho hợp lý. Thỉnh thoảng cũng đã từng có những cuộc bàn luận sôi nổi giữa giáo dân về những vấn đề đó. Ngoài ra những đòi hỏi của đời ta bây giờ, những biến cố lớn đã xảy ra trong phạm vi quốc tế cũng buộc ta lên tiếng, hoặc để chỉ lối áp dụng học thuyết xã hội của Đức Lêô XIII, hoặc bổ khuyết những quan điểm còn thiếu, Vậy cứ theo sứ vụ tông đồ buộc ta phải phụng sự toàn thể nhân loại, ta hân hạnh nhân dịp rất thuận tiện này để giải quyết những điều còn khắt khe và giải đáp những vấn đề mới được nêu lên.
II. Học thuyết công giáo về vấn đề kinh tế và xã hội.
- Trước khi nhập đề, Ta đã nhấn mạnh vào nguyên tắc chính Đức Lêô XIII đã đề cao rằng: Ta có quyền mà lại có phận sự đem cả thiên chức uy linh của Ta, để giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi kinh tế và xã hội.
Đã đành sứ vụ riêng của Giáo hội không phải chỉ là dẫn đưa nhân loại đến hạnh phúc tạm gửi chóng qua đời này. Giáo hội phải đưa nhân loại đến hạnh phúc trường sinh. Hơn thế, Giáo hội không sao nhận mình có quyền tham gia vào những việc thuộc về thế tục. Thật ra, để giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội về phương diện kỹ thuật chuyên môn, Giáo hội không những thiếu phương tiện mà lại thiếu luôn cả năng lực. Nhưng dầu thể nào mặc lòng, Giáo hội không thể nào xao nhãng sứ vụ Thiên Chúa đã giao uỷ cho, mà không tham gia vào tất cả mọi phạm vi đời sống có liên quan đến chân lý. Ta có phận sự duy trì những chân lý của Phúc Âm. Ta buộc nhặt phải tuyên bố, giải nghĩa, rao giảng luân lý nữa, về đủ mọi phương diện, bất cứ Ta gặp phải trở lực nào. Vậy không ai chối được tổ chức xã hội và kinh tế tự nhiên liên quan với luân lý. Nên ta có quyền can thiệp vào, ít nhất là về phương diện ấy. Quả thật, phạm vi kinh tế và phạm vi luân lý thì khác nhau xa. Mỗi phạm vi cũng có những nguyên tắc khảo cứu và hành động riêng biệt. Nhưng phân tích kinh tế học và luân lý đến nỗi luân lý không còn ảnh hưởng gì đến kinh tế là lầm to. Đã đành những luật lệ kinh tế thì căn cứu vào thiên nhiên và những năng lực hồn xác của con người. Nhờ đó kinh tế học mới cho ta biết rõ những vật đích kinh tế theo đuổi, mà năng lực cá nhân không sao đạt tới được. Trong những vật đích ấy, nó lại theo đuổi những mục tiêu nào, rồi quyết thực hành những mục tiêu ấy bằng cách nào? Đằng khác lý trí căn cứ vào thiên nhiên, bản tính cá nhân và xã hội của con người để cho ta biết cứu cánh tuyệt đối, mà tạo hóa đã định cho nhân loại phải theo đuổi trong cả phạm vi kinh tế nữa.
- Nhưng chỉ luân lý mới buộc chúng ta phải theo đuổi những mục tiêu trực tiếp thiên nhiên và nhất là Tạo hóa đã định cho mỗi phạm vi hành động của ta, rồi minh phối những mục tiêu ấy tự nhiên hòa hợp với nhau, theo cứu cánh tuyệt đối ai cũng phải đạt tới trong đời sống của mình. Trung thành theo đuổi cứu cánh này, tất cả mục tiêu riêng loài người quyết đạt tới bằng những hành động cá nhân hoặc xã hội hay kinh tế, sẽ tự nhiên ăn khớp với nhau khôn khéo lạ lùng. Nhờ vậy loài người sẽ tiến dần dần hầu như đi từng bước một trên đường đưa tới tuyệt đỉnh cao thượng muôn vật hằng hướng đến: Tức là Thiên Chúa; đối nội là Đấng hoàn hảo tuyệt mỹ; đối ngoại (tức là đối với nhân loại) là nguồn phúc vô tận tuyệt đối ai cũng mong tới.
1. Quyền tư hữu
- Bây giờ Ta nhập đề. Trong những điều ta quyết bàn giải, điều thứ nhất là quyền tư hữu.
Anh em thân mến, anh em thừa biết Đức Tiên Giáo hoàng đáng nhớ đã bênh vực quyền tư hữu khỏi mọi tà thuyết xã hội đời trước phá tan. Ngài đã chứng tỏ một cách hùng hồn và rõ ràng: Bài trừ quyền tư hữu này thì thay vì gây ích lợi cho giai cấp lao động, chỉ là gây tai hại không tả xiết. Nhưng dầu sao cũng không thiếu người bỏ vạ cho Tòa thánh và cả Giáo hội, mà kêu trách rằng: Đức Tiên Giáo hoàng đã bênh vực và cứ bênh vực mãi kẻ giàu sang mà bỏ mặc kẻ bần cùng vô sản. Thật là một điều lăng mạ không ai chịu được.
Mặt khác, chính giáo dân bất đồng ý về cách giải nghĩa quan niệm của Đức Lêô XIII về quyền tư hữu. Vậy thiết tưởng ta phải rửa nhục cho Giáo hội đã bị cáo gian vì học thuyết xã hội của Đức Lêô XIII, là học thuyết chính thức của Giáo hội, rồi ta phải cải chính những điều đã bị giải thích trái sự thực.
a. Quyền tư hữu có tư cách cá nhân và xã hội.
- Một điều ai cũng phải nắm chắc là Đức Lêô XIII và các nhà thần học, đều giải thích giáo lý dưới sự linh ứng và kiểm duyệt của Giáo hội. Các ngài không bao giờ chối và không bao giờ bài bác hai tính cách tự nhiên của mọi quyền tư hữu, bất cứ quyền ấy gây lợi ích riêng cho từng công nhân, hay chỉ quy về công ích của toàn dân. Trái lại ai cũng đồng ý công nhận rằng, quyền tư hữu thì bởi thiên nhiên, tức là bởi Tạo hóa phú ban cho nhân loại. Nhân loại hưởng dụng quyền ấy theo hai mục đích. Thứ nhất là để mọi người tìm kế sinh nhai và cấp đủ sự cần cho cả gia quyến; thứ hai là để mọi của cải Tạo hóa cấp chung cho nhân loại, nhờ quyền tư hữu nói trên được mưu ích thực sự cho từng người. Nên trong thực hành xã hội phải duy trì trật tự tự nhiên và liệu cho có quy cách vững vàng.
Cho nên có hai chướng ngại ai cũng phải cẩn thận tránh xa: chối hay cứ giảm mãi tính cách xã hội và công chính của quyền tư hữu, là sa vào chủ nghĩa cá nhân khốc hại. Trái lại, chối hay cứ giảm mãi tư cách tư nhân của quyền sở hữu lại là sa vào chủ nghĩa tập sản (hay cộng sản) không kém khốc hại. Nếu không sa vào hoàn toàn thì ít nhất cũng là thông phần sai lạc của nó.
Không khéo tránh hai chướng ngại đó, thì thế nào cũng phải quy về phong trào luân lý, pháp luật hay xã hội hiếu tân, mà chính ta đã cảnh cáo ngay từ lúc mới lên ngôi Giáo hoàng.
Yêu cầu mọi người và nhất là những kẻ mới trôi theo phong trào cải tân, (làm ơn chú trọng điểm ấy). Họ vô lý khi quở trách Giáo hội đã mặc các nhà thần học truyền bá quan niệm tha dân xưa về quyền tư hữu, đang lúc họ hấp tấp đề nghị một quan niệm sai lạc, mà họ vô ý thức giới thiệu là quan niệm Kitô hữu chính đáng.
b. Phận sự kèm theo quyền tư hữu.
- Bàn tán về những sự xích mích do quyền tư hữu và phận sự kèm theo nó, mà không muốn ngoại đề, thì ta phải nhắc lại nguyên tắc căn bản chính Đức Lêô XIII đã nhấn mạnh từ trước: quyền tư hữu không thể nào hòa lẫn với thể cách dùng quyền ấy. Phận sự tôn trọng sở hữu của từng người, do đức công bằng thường gọi là công bằng giao hoán (justice commutative) bắt buộc. Cũng do một nhân đức ấy, mà mọi người cấm không được vượt qua quyền lợi riêng mà chạm đến quyền lợi kẻ khác. Mặt khác, phận sự buộc các chủ sản dùng quyền sở hữu của họ cho hợp lý; thì do các nhân đức khác, chứ không bởi đức công bằng nói trên mà ra. Vì thế, dầu phận sự dùng của cho hợp lý buộc ngặt thì cũng không ai căn cứ vào pháp luật, để cưỡng bách người ta tuân giữ nó được; thành ra tìm đồng nhất quyền sở hữu và cách dùng sở hữu riêng, là lầm to. Nhưng lầm to hơn nữa là quyết bài trừ quyền tư hữu, nguyên vì lý do người ta đã dùng quyền trái lý, hay cứ bỏ hoang những sở hữu của họ. Trái lại, một việc hữu ích đáng khen là tận tâm hiệp lực tránh xa mọi xích mích là đồng ý với nhau tìm bảo vệ học thuyết xã hội của Giáo hội cho vẹn toàn. Rồi mải miết tìm phân minh những bổn phận chủ sở hữu phải đảm nhiệm đối với xã hội, là định giới hạn quyền tư hữu không thể nào vượt qua cả trong cách hưởng sở hữu. Nhưng tìm giảm bớt tính cách tư nhân của quyền sở hữu này đến nỗi trong thực hành không còn tư nhân nào đòi quyền ấy được nữa, đó thật là lỗi lầm và hại lớn.
2. Chính quyền quốc gia.
- Về vấn đề sở hữu này mọi người phải nhắm hai mục đích. Quyền tư hữu có tính cách tư nhân và xã hội; cho nên ai cũng phải dùng trực tiếp để gây tư lợi gián tiếp để gây ích lợi chung cho cả cộng đồng xã hội. Vậy hễ khi nào có sự khẩn cấp, mà lại luật tự nhiên vẫn lu mờ không rõ, thì các nhà cầm quyền trong xã hội, phải can thiệp định rõ phận sự của từng công dân đối với công ích. Trong những trường hợp đó, chính quyền phải tìm hiểu những đòi hỏi của công ích, rồi ấn định công dân phải dùng sở hữu làm sao cho thích hợp với luật tự nhiên và lệnh Tạo hóa. Đức Lêô XIII sáng suốt dạy rằng: Thiên Chúa đã uỷ việc định hạn sở hữu cho lý trí lỗi lạc của từng người và cho những cơ cấu xã hội của từng dân tộc. Thể cách hưởng dụng quyền tư hữu, cũng như một chế độ xã hội phải thay đổi theo thời thế hoàn cảnh, nên không nói được là sự bất di bất dịch đâu. Điểm ấy lịch sử làm chứng rõ ràng, và chính ta đã nhấn mạnh trong một bài diễn văn khác: (diễn văn cho Công Giáo Tiến Hành Ý, 16.3.1926) Ta nói rằng: “Những thể cách hưởng dụng quyền tư hữu đã biến hóa luôn từ thể cách thô sơ của các dân mường mọi xưa” và còn được duy trì ở một vài địa phương, trải qua thể cách tộc trưởng, sang đến thể cách độc tài, phong kiến đế vương vừa rồi, cho đến những thể cách rất phức tạp của xã hội cận kim. Nhưng dầu sao, Ta không nói được trong phạm vi ấy chính quyền định làm gì cũng được đâu. Bất cứ lúc nào quyền tư hữu là quyền tự nhiên và quyền truyền gia sản theo lời thừa kế phải tuân giữ vẹn toàn. Quyền ấy không chính phủ nào bãi bỏ được, vì con người có trước, xã hội có sau; gia đình lại là xã hội có trước, xã hội dân chính mới có sau không những trong lý thuyết mà lại trong cả thực tế nữa. Cũng vì thế mà Đức Lêô XIII đã nói quyết rằng: chính phủ không sao làm kiệt quệ quyền tư hữu của từng công dân vì bắt thuế quá nặng. Quyền tư hữu là quyền thiên tạo chứ không chỉ là một quyền nhân tạo đâu, thành ra chính quyền điều khiển được người ta lợi dụng quyền ấy làm sao cho nó hòa hợp với công ích. Nhưng chính quyền không sao bãi bỏ nó được. Hễ khi nào chính quyền tìm dung hòa quyền tư hữu với công ích, thì chẳng những không đáng gọi là kẻ thù nghịch các chủ sản, mà lại đáng được các chủ sản nhận thực là bạn hữu ân cần cứu thoát quyền tư hữu, vốn được Thiên Chúa quan phòng dựng nên để giúp ích cho nhân loại khỏi gây bao thiệt hại nguy khốn và tự tiêu diệt dần dần. Nhờ vậy, chính quyền không đàn áp quyền tư hữu đâu, mà cứ bảo vệ nó. Thay vì làm cho nó sút kém chính quyền tăng lực cho nó.
3. Phận sự đối với hoa lợi tiêu dụng được.
- Loài người không ai có quyền tiêu dụng phần hoa lợi thừa dư tùy ý sở nguyện. Phần hoa lợi nói đây gồm tất cả phần hoa lợi còn dư sau khi mình đã cấp đủ sự cần cho đời sống luôn luôn cân xứng với địa vị. Trái lại, kẻ giàu sang buộc ngặt phải thí của, làm việc từ thiện, tỏ mình rộng rãi theo lời Thánh Kinh và các tiến sĩ Hội Thánh không ngừng giảng dạy.
Vậy căn cứ vào những nguyên tắc Thánh Thomas thường hay đề cập, Ta có thể kết luận rằng: Những người nào có phần lợi thừa dư mà đem góp vào một xí nghiệp đang phát triển gây dịp cho công nhân tìm việc lĩnh lương phải chăng, mà lại sản xuất những đồ hữu ích thật, thì những người ấy thực hành luật bố thí, làm việc từ thiện một cách rất đáng khen và rất thích hợp với những đòi hỏi của đời ta, ấy là thực hành đức quảng đại thực lòng.
4. Quyền sở hữu chính đáng căn cứ vào đâu
- Theo những phong tục di truyền và phổ biến khắp nơi, theo các huấn thị của Đức Tiên Giáo hoàng Leo XIII, những lý do chính tự nhiên phát sinh quyền sở hữu của bất cứ người nào, thì có hai: tiên chiếm một đồ vật còn vô chủ; lao công để biến hóa một vật liệu nào thành một đồ vật hữu ích có giá trị. Quả thật, không cứ gì những dư luận vô lý bay bổng tiên chiếm những đồ hoang chưa nhập sở hữu của ai hết, không phải là sự bất công đâu, “tiên chiếm giả đắc”. Mặt khác, lấy một đồ vật thuộc sở hữu của mình, rồi xuất công biến hóa thành đồ vật hữu ích và thêm giá trị, cũng là đủ mà đòi toàn quyền đến sản phẩm ấy.
a). Tư bản và cần lao
- Kẻ làm mướn, tức là làm việc cho một người hứa trả công và cấp sẵn đủ vật liệu, thì khác hẳn. Ta phải áp dụng cho kẻ ấy những lời tuyên bố của Đức Lêô XIII đã quyết rằng: không ai chối cãi được phúc lợi của các dân tộc đều phát nguồn từ ở cần lao. Ta nhận thấy rằng: Những sản phẩm mênh mông đủ thứ làm cho các dân nước ngày càng phong phú hơn, há chẳng phải do bàn tay lao động phát xuất ư? Dầu họ làm bằng tay hay nhờ những máy móc tăng lực cho, ta cũng phải công nhận những sản vật ấy là công nghiệp của họ. Ai cũng phải nhận rằng: không dân nào thoát khỏi sự bần cùng và sự khốn cực, nếu dân nước ấy không động viên toàn lực để hợp tác vào cần lao; bằng cách lao tâm chỉ huy, hay bằng cách lao động thực hành đủ mọi công việc cần thiết. Đàng khác những năng lực sản xuất kia, chắc thể nào cũng sẽ vô hiệu quả, nếu Tạo hóa dựng nên muôn vật không tỏ lòng quảng đại mà tiềm tàng trong thiên nhiên đủ nguyên liệu và nguyên lực. Ngoài ra cần lao là gì, há chẳng phải là xuất đủ mọi năng lực tâm trí và thể xác, hoặc để cải hóa muôn vật trong thiên nhiên cho hữu ích hơn, hoặc để hưởng dụng những sự vật ấy làm khí cụ thích ứng với công việc mình quyết thực hành ư?
- Vậy luật thiên nhiên vốn bày tỏ ý Tạo hóa cho nhân loại noi theo, ép buộc ai nấy cũng phải chia sản phẩm của thiên nhiên cho thích hợp với những nhu cầu chính đáng của nhân loại, theo một tổ chức thứ tự hoàn hảo. Luật ấy không sao thực hành được, nếu chúng ta chối quyền sở hữu. Vật nào chủ ấy. Thành ra ngoài trường hợp công nhân dùng vật liệu riêng mà làm việc, thì sự cộng tác giữa người có tư bản và người cần lao làm việc là sự tối cần. Thiếu sự cộng tác này, bên nào cũng ra vô hiệu lực. Những lời Đức Lêô XIII đã nói quyết rằng: cần lao thiếu tư bản, tư bản thiếu cần lao cũng thành vô ích cả hai. Phải hiểu như vậy.
Vì vậy, dồn vào tư bản hay vào cần lao, những công hiệu do cả hai hợp tác gây nên, là một lầm lỗi lớn. Tư bản cảnh cáo cần lao là vô ích, cần lao cảnh cáo tư bản là vô dụng, đằng nào cũng là phạm đến công bằng. Vì cả hai tư bản và cần lao hợp tác chặt chẽ thân mật với nhau thì mới có công hiệu.
b). Những đòi hỏi vô lý của tư bản
- Quả thật phần hoa lợi mà xưa nay, tư bản đòi làm phần riêng thì đã quá nhiều. Nó đòi luôn sản phẩm và cả hoa lợi nữa, chỉ nhường cho cần lao đủ tiền lương bổ sức và truyền nòi là một sự bất công. Người ta quyết rằng luật kinh tế thì bất di bất dịch. Nó buộc tư bản chồng chất trong tay cả vốn liếng, và buộc cần lao phải kéo lê một đời sống bấp bênh trong cảnh thiếu thốn bần cùng không ai tránh được. Nhưng cũng may mà thực tế không thích hợp với những lý thuyết mà chủ nghĩa tự do bởi trường Manchester khởi xướng từ trước. Nhưng dầu sao, nền kinh tế xã hội đã không ngừng hướng chiều về những lý thuyết khốc hại đó. Bởi thế không còn ai ngạc nhiên được, khi thấy những huấn lệnh và những tà thuyết ấy bị phản đối kịch liệt từ ở những người không thuộc giai cấp lao công. Vì những tà thuyết ấy công nhận không được vươn mình lên một địa vị sinh hoạt khả quan hơn nữa.
c). Những đòi hỏi vô lý của cần lao.
- Đối lại bao người trí thức thiện chí nhập vào phe lao động để thúc họ đả phá luật kinh tế giả tạo kia, để áp dụng một luật luân lý cũng hư ảo: Sản phẩm và hoa lợi trừ phần cần thiết để hoàn giao và tu bổ lại tiền vốn đã tiêu xuất, phần còn lại đương nhiên là của công nhân. Đó cũng là một đòi hỏi vô lý và sai lầm. Nhưng còn một đòi hỏi vô lý hơn nữa, là đòi hỏi của chủ nghĩa xã hội đòi phải trao lại cho chính phủ hay quốc hữu hóa tất cả mọi khí cụ sản xuất.
Nhưng dầu không nói rõ đòi hỏi kia sai lầm ở chỗ nào, có lẽ nó nguy hại hơn, vì nó sẽ đánh lừa những người thiếu kinh nghiệm và hay mê tín. Nó là một nọc độc ai thụ hưởng cũng bị say mê. Cả những người kịch liệt chống trả chủ nghĩa xã hội, đã liều mình nếm thử nó.
5. Một nguyên tắc chính đáng, phải áp dụng vào việc phân chia hoa lợi.
- Những tà thuyết bành trướng mãi, thì rất có thể ngăn đường đưa đến công bằng và hòa bình vĩnh viễn. Nên bất cứ bên nào, tư bản và lao công cũng đã cần đến những huấn thị sáng suốt của Đức Tiên Giáo hoàng: “Dầu đã phân chia từng sở hữu riêng, hoàn cầu vẫn mưu ích chung cho toàn thể nhân loại”. Chính Ta mới nhắc lại nguyên tắc ấy rằng: Để mưu ích chung cho nhân loại một cách vững chắc và thứ tự. Tạo hóa mới đặt quyền tư hữu làm phương tiện phân công chia của. Bỏ nhãng nguyên tắc căn bản này là liều mình lạc xa đường chính.
- Vậy phân chia sản phẩm và hoa lợi lung tung, không phải là phương cách thực hiện ý Tạo Hóa tiền định cho thích hợp với những hoàn cảnh hay thay đổi của nhân loại. Nền kinh tế xã hội càng ngày càng phát triển, sản phẩm càng ngày càng dư thừa. Nên phải lo phân chia hoa lợi làm sao cho từng cá nhân, và đủ mọi giai cấp xã hội hưởng phần công ích theo lời Đức Lêô XIII đã giảng dạy: cho công ích toàn thể xã hội được tôn trọng thật sự. Công bằng xã hội cấm giai cấp này không được làm khó dễ để cho giai cấp kia thông phần hoa lợi cho cân xứng. Giai cấp này hay giai cấp kia cũng lỗi luật chí thánh này như nhau: kẻ giàu sang vì tiền của nhiều nên không cần lo xa. Nếu họ xét đó là một tình trạng tự nhiên chính đáng mà dành hết hoa lợi làm của riêng, không nhường phần nào cho công nhân, thì họ lỗi đến công bằng nói trên. Kẻ vô sản thì khác, họ tức tối cực điểm vì tình trạng quá bất công kia là phải…, nhưng họ cũng mắc lỗi hoặc vì họ chỉ lo quyền lợi giai cấp mới ý thức của họ, mà quyết dồn vào trong tay mình sản phẩm luôn với cả hoa lợi do công việc của họ đã gây nên, vì làm như vậy, họ lên án và quyết bài trừ mọi sở hữu và mọi nguồn lợi tự nhiên có trong xã hội. Theo ý họ không cứ gì bản tính và vai trò những tư bản ấy trong đời sống nhân loại, cũng phải bài trừ vì là công hiệu của cần lao. Về vấn đề ấy Thánh Phaolô đã có câu: “Ai không làm việc thì kẻ ấy không đáng ăn”. Bao nhiêu người cứ căn cứ vào câu đó mà chứng tỏ quyền riêng của lao công. Nhưng ai lại không thấy là vô lý, là ngoại đề. Trong câu ấy, Thánh Phaolô chỉ lên án những người tránh những việc đáng lẽ họ có thể làm mà lại phải làm nữa, mà cứ đòi ăn như thường. Người thúc đẩy ta cứ ân cần với phận sự, dùng năng lực hồn xác để gây ích lợi tư và công, kẻo bắt người ta phải vác lên vai một gánh nặng là cấp sự cần cho ta, đang lúc ta có thể tự túc, và lo thỏa mãn sự cần riêng. Ta không thể nào căn cứ vào câu ấy, mà tuyên bố rằng: Chỉ có một quyền sở hữu chính đáng, là quyền sở hữu bởi cần lao gây nên.
Thành ra một việc thượng khẩn, ai cũng phải đảm nhận: Trước là trả công cho từng người cách xứng đáng, sau là tổ chức sự phân chia hoa lợi theo những đòi hỏi của công ích và đức công bằng xã hội. Cảnh thê thảm của một xã hội giai cấp dành hết của cải trong tay kẻ giàu sang, và mặc kẻ bần cùng đói rách, là tang chứng rõ ràng trước mắt kẻ còn thiện chí, xã hội đang tiến triển nhưng cũng đã lạc đường chính, nên đang ở một tình trạng trầm trọng nguy hiểm.
Phục hưng lại giới vô sản..
- Mục đích Đức Tiên Giáo hoàng ý thức mục vụ đã theo đuổi, là phục hưng lại giới vô sản trong xã hội. Đó là một phận sự thượng khẩn, ta phải thúc đẩy anh em tận tình lo thi hành. Về phận sự ấy ta phải tha thiết nhấn mạnh, vì ta nhận thật những huấn lệnh của Đức Tiên Giáo hoàng đã bị khinh bỏ, hoặc bị người ta cố tình im lặng không nói đến, hoặc vì người ta ý thức phận sự, nhưng tưởng là quá nặng nề không ai thực hành được mà lại không ai có quyền trốn tránh không chịu nhận được.
- Cảnh khốn cực ấy, đời Đức Lêô đã kinh khủng thật. Đời ta bây giờ nó giảm bớt nhiều. Nhưng không phải vì thế mà những huấn lệnh của Đức Tiên Giáo hoàng vô giá trị, hay không còn hợp thời nữa đâu. Thú thật địa vị của giới lao công đã khả quan hơn. Thân phận công nhân đã trăm bề dễ chịu hơn. Nhất là trong những quốc gia tân tiến và tiến bộ, công nhân đời ta không thể nào nói được, họ cùng một địa vị khốn cực và bần cùng như nhau. Nhưng mặt khác, đang lúc kỹ thuật và công nghệ lần lượt xâm chiếm các tân quốc gia và các nước viễn đông, thì ta cũng thấy cảnh bần cùng của đa số công nhân vô sản lan rộng và kêu lên thấu trời. Thêm vào đó lại có hằng hà sa số nông dân sống chật hẹp khó khăn, và không chút hy vọng làm chủ ruộng họ cày cấy. Nên không lo liệu gấp và hiệu nghiệm họ sẽ lần lượt nhập vào số kẻ bần cùng, và làm cho giới vô sản tăng số mãi không cùng.
- Giới vô sản và kẻ bần cùng, quả thật khác nhau xa. Nhưng dầu sao kẻ giầu sang thiểu số mà lại sở hữu rộng lớn, đang sống giữa cảnh đa số kẻ vô sản, là một tang chứng rõ ràng, những sản phẩm do đại kỹ nghệ phát xuất dư dật, chưa được phân chia cho công bằng, và chưa được áp dụng vào những nhu cầu riêng biệt của từng giai cấp xã hội.
* Phục hưng giới vô sản bằng cách mở đường cho họ chiếm lấy được một sở hữu.
Bởi thế cho nên chúng ta phải hết sức cổ động và dùng trăm phương ngàn cách, để tài sản hiện đang nằm trong tay kẻ tư bản, được giảm bớt cho hợp công lý hơn, và tràn vào giới lao động cho phải chăng. Không phải để công nhân được bớt lao công mà sống an nhàn hơn đâu. Chim có cánh để mà bay, người ta có tay để mà làm. Nhưng để công nhân đủ sống, đủ dành tiền lập tư sản và dần dần nhờ họ sáng suốt tổ chức sản nghiệp riêng, thì họ đối phó lại được với những đòi hỏi của đời sống và những sự cần cho gia đình dễ dàng hơn. Như vậy họ sẽ bớt phần lo xa, không còn sống bấp bênh là thân phận riêng của giới vô sản. Họ sẽ đầy đủ phương tiện đề phòng và thoát khỏi mọi sự rủi ro mà đời sống của họ vẫn không thiếu. Rồi đến lúc chết họ sẽ yên trí vì thân nhân còn sống nhờ công việc của họ chắc được đủ cho đời sống.
Những quan điểm ấy, trong bức thông điệp “RN” đã được công bố công khai và hiển nhiên. Chính Ta lại tha thiết nhấn mạnh trong bức thông điệp này. Ai cũng phải tin chắc rằng không dựa vào những quan điểm ấy mà để thực hành trong xã hội, mỗi người tùy theo tài lực riêng, thì ta sẽ không bao giờ cứu được trật tự xã hội, hòa bình thế giới và an ninh nhân loại khỏi bị những lực lượng cách mạng đang mạnh tiến xung phong.
Định tiền lương cho thích hợp với công lý.
- Những huấn lệnh ấy, chỉ có thể thực hiện nếu các công nhân hiện vô sản dư điều kiện và nhờ một đời sống tiết kiệm, lập được một sở hữu riêng, theo lời Đức Tiên Giáo hoàng mà chính ta không ngừng nhắc lại cho thế giới. Vậy nếu họ không căn cứ vào tiền công họ nhận lĩnh hằng tháng, thì họ sẽ căn cứ vào đâu mà tổ chức đời sống tiết kiệm ấy. Những người chỉ có công nhật mà bảo vệ mạng sống và tìm đủ sự cần, nếu số tiền lương không đủ thì sẽ lấy gì mà lập tài sản? Cho nên ta phải bàn luận về vấn đề đồng lương phải chăng, họ có quyền được hưởng. Theo ý Đức Lêô XIII vấn đề ấy rất quan trọng. Vậy ta hãy tìm giải quyết vấn đề ấy bằng cách giải nghĩa và tùy theo sự cần, giảng giải rõ hơn những học thuyết và những huấn lệnh của ngài.
Trước Ta hãy nhắc qua, sự lầm lỗi nguy hiểm của những người nào mưu ý bãi bỏ giao kèo công lao, vì tưởng nó là bất công, để thay thế nó bằng giao kèo xã hội. Những người ấy phạm đến danh giá của Đức Tiên Giáo hoàng Leo XIII. Bức thông điệp “RN” không những công nhận giao kèo công lao là hợp lý, mà lại giảng giải những điều luật cần thiết cho nó thích hợp với công lý hơn.
- Nhưng dầu sao để thích hợp với hoàn cảnh xã hội hiện tại, ta đề nghị bổ khuyết giao kèo công lao kia bằng những điều kiện ta có thể mượn lấy của giao kèo xã hội này. Điều ấy đã được áp dụng vào rất nhiều trường hợp khác nhau dưới nhiều hình thức khác nhau, mà gây lợi nhiều không những cho cần lao mà lại cho cả tư bản nữa. Tỉ dụ như công nhân và lao động đã được kêu mời tham gia vào sở hữu căn bản của công ty mướn họ. Họ tham gia vào hành chính và chia phần hoa lợi công ty của họ thâu góp được.
- Đức Lêô XIII đã rất thích đáng nhắc lại rằng: “Ta không sao định số tiền lương phải chăng, theo một nhận xét duy nhất mà quên bỏ những nhận xét khác, có lẽ quan trọng hơn”. Ngài nói để định số tiền lương phải chăng, ta phải chú tâm đến đủ mọi phương diện. Như vậy, ngài đã kết án cho những người tự đắc giải quyết được vấn đề rất phức tạp này, theo một luật mực hay một tỉ lệ nhất định. Ngoài ra luật mực kia, tỉ lệ này hoàn toàn sai lầm.
Kẻ không chút ngần ngại theo thành kiến đã phổ biến hầu hết khắp nơi mà định giá công lao và việc trả công đúng theo hoa lợi nó gây nên, thì đều lầm to. Nhờ vậy họ kết luận rằng: Công nhân toàn quyền đòi tất cả hoa lợi bởi công việc họ gây nên thì hại lớn. Đọc lại những lời ta đã nói về những mối tương quan cần thiết giữa tư bản và cần lao, thì ai cũng đủ rõ.
* Tính cách tư nhân và xã hội của cần lao.
Cần lao không kém tư bản, cũng có tính cách tư nhân và xã hội. Đó là một điều ta nên nhớ không bao giờ quên. Nhất là khi nói đến những công nhân làm mướn. Điều ấy thì quá hiển nhiên. Mọi cố gắng hành động chung của nhân loại, không thể nào kết quả được, nếu thiếu những điều kiện sau đây:
Xã hội phải có quy tắc, thành một tổ chức tinh xảo; trật tự và quy luật xã hội phải bảo đảm mọi cần lao. Những nghề nghiệp rất phức tạp đều liên hệ với nhau. Nên phải hòa nhịp và bổ khuyết nhau.
Nhờ một trí tuệ minh mẫn, cần lao và tư bản phải hòa hợp với nhau, trở thành một cơ quan hành động duy nhất.
Bởi thế ta không thể nào định giá công thợ cho hợp lý, và trả lương công nhân cho phải lẽ. Nếu ta coi thường hai tính cách tư nhân và xã hội của cần lao.
* Ba điểm chính đáng quan trọng.
a). Kế sinh nhai và gia đình người.
- Vì hai tính cách tự nhiên của cần lao, ta có thể khấu trừ những nguyên tắc quan hệ về thể thức trả công và tỉ lệ phải chăng của nó.
Trước phải trả công thợ cho đủ sống và nuôi gia đình. Đã đành tất cả thân nhân của người thì cũng phải tùy sức góp phần vào việc cấp sự cần cho gia đình họ, như ta thường thấy ở hầu hết các gia đình nông dân, và rất nhiều gia đình công nhân hay thương nghiệp. Nhưng cấm ngặt không được bắt tuổi trẻ còn thơ dại, đàn bà nhu mì, làm việc quá sức. Các bà mẹ phải lo việc nhà, lo tề gia nội trợ hay các việc khác liên quan đến gia đình. Vì tiền lương gia trưởng thiếu, các bà mẹ phải lo việc giáo dục đàn con, và các bổn phận khác, mà (phải[HB2] ) đi tìm một sinh kế riêng, quả thật là một việc lộng hành đáng kết án nghiêm trị.
Vậy ta phải dùng đủ mọi phương tiện cho các gia trưởng lao động được trả công vừa đủ cho họ đảm nhận những phận sự chính đáng của họ đối với gia đình. Tình trạng xã hội kỹ nghệ hiện tại rất bất tiện, để hoàn tất phận vụ ấy. Nhưng công bằng xã hội bắt buộc ai nấy phải tận tâm với việc canh tân xã hội, cho mọi công nhân trưởng thành lĩnh được số lương cân xứng với địa vị của họ. Về phương diện ấy, ta thành thực tán tạ những người đã có nhã ý khôn ngoan và hữu ích, tìm trăm phương nghìn cách, hoặc để định giá công thợ theo những đòi hỏi của một gia đình hằng mở rộng thêm đông (nhờ vậy gia đình càng thêm đông, thì gia trưởng càng được tăng lương), hoặc là để cung cấp những sự cần bất thường do thời thế hoàn cảnh gây nên bất ngờ.
b). Tình trạng thành bại của xí nghiệp.
- Trong việc định giá công thợ, ta lại phải chú tâm đến tình trạng thành bại của xí nghiệp và những người phụ trách nữa. Đòi tăng lương mãi sẽ là một sự vô lý, trong những trường hợp xí nghiệp lâm nguy. Làm như vậy là đưa xí nghiệp đến bại hoại và khiến công nhân lại thất nghiệp nữa. Nhưng nếu xí nghiệp lâm nguy bại hoại vì ban quản trị uể oải và xao nhãng, hoa lợi sút kém vì kẻ phụ trách chẳng lo mở mang công việc về phương diện kinh tế và kỹ thuật, thì họ không thể nào hạ giá công thợ vì cớ phải cứu xí nghiệp. Đàng khác, nếu tài chính không đủ mà trả công phải chăng cho thợ thuyền, hoặc vì xí nghiệp phải nạp thuế quá nặng và vô lý, hoặc vì xí nghiệp gặp cản trở vô cớ nên phải bán sản phẩm hạ giá, thì những người nào bắt thuế kia hay làm cản trở này, đều vi phạm công lý và mắc phải tội không tha thứ được. Lý do là vì lỗi bất công của họ, công nhân không đòi được tiền lương phải chăng mà tự nhiên họ có quyền đòi, và nhiều khi vì bắt buộc họ phải nhận tiền lương quá hạ đối với phận sự họ gánh vác.
Bởi thế tất cả chủ nhân và công nhân phải đồng tâm nhất trí, tìm thắng vượt mọi sự khó khăn và mọi trở lực. Chính quyền lại phải giúp họ thành công dễ dàng, nhờ một chính thể khôn ngoan đắc lực ủng hộ họ. Nhỡ ra không ai thoát khỏi cơn khủng hoảng kinh tế này, thì họ phải nêu lên vấn đề giải tán xí nghiệp, và tìm cách khác bổ túc cho công nhân vô tội mà lại bị hại lớn. Trong trường hợp nghiêm trọng ấy, chủ nhân và công nhân phải đoàn kết chặt chẽ thân mật, và đồng tâm trong tình nghĩa phúc âm, thì mới hành động một cách hiệu nghiệm và kết quả.
c). Những đòi hỏi của công ích.
- Để định giá công thợ, ta phải tuân cứ những đòi hỏi của công ích nữa. Trên kia ta đã nhấn mạnh điều đó. Công nhân và lao động đủ tiền cấp sự cần khẩn thiết, và dành một phần lập tư sản vừa phải, thì lợi cho công ích biết bao! Nhưng còn một quan điểm nữa không kém quan trọng, mà ngày nay thật không ai bỏ phớt được. Ta có ý nói rằng: cần lao phải tổ chức trong nước làm sao cho tất cả mọi công dân làm việc được và muốn làm việc, thì tìm được công ăn việc làm cách dễ dàng. Tổ chức này phần lớn tùy thuộc tiền lương phải chăng công nhân lãnh nhận được. Nếu số tiền lương ấy hợp lẽ phải, thì nước sẽ không thiếu gì việc làm cho công nhân. Số tiền lương quá hạ, thì trái lại, công nhân không tìm đâu được cho có công ăn việc làm. Ngoài ra cũng không ai chối được, tiền lương hoặc quá cao, hoặc quá thấp cũng gây dịp cho một tệ đoan xã hội, thường gọi là nạn thất nghiệp. Tệ đoan xã hội ấy đời ta bây giờ thì phổ thông rất nhiều. Vì nó mà đa số công nhân bị thiệt, chìm đắm trong cảnh khốn cực, lại không ngừng mưu gian làm ác nữa. Họ khiến cả những dân nước phong phú phải bị tiêu diệt dần dần. Lúc nào họ cũng làm lung lay trật tự xã hội an ninh quốc gia và hòa bình thế giới. Cứ tăng gia hay giảm bớt công thợ vô lý nguyên vì lợi ích tư nhân, mà không quản gì đến công ích, là một sự vô lý mà lại phạm đến công bằng xã hội. Trái lại mọi người phải đồng tâm nhất trí để thiết lập một chính sách lương bổng cho công nhân vừa dễ tìm việc làm, vừa dễ thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của một đời sống xứng vị con người.
- Muốn chóng được kết quả, ta còn phải dung hòa tiền lương của từng giai cấp công nhân, mà lại nhớ một điều mật thiết liên hệ với vấn đề ấy, tức là định giá phải chăng của một sản phẩm cần thiết và thuộc về đủ mọi chi nhánh kinh tế, canh nông, kỹ nghệ… những chỗ nào nền kinh tế được tổ chức cân bằng, thì chỗ ấy mọi hành động phức tạp của con người sẽ hòa nhịp và bổ khuyết nhau thành một cơ thể duy nhất, đủ bộ phận chuyên biệt nhưng thuận hòa nâng đỡ nhau. Cơ thể kinh tế xã hội chỉ hoàn bị, khi nó cấp đủ nhu cầu cho toàn dân và cho từng người, về phương diện canh nông và kỹ nghệ. Tổ chức xã hội kinh tế phải tìm những phương tiện cần thiết để đạt tới mục đích cần thiết ấy. Nhưng sản phẩm canh nông và kỹ nghệ sản xuất phải đủ, để cho các công dân sống xứng vị con người và vươn mình lên một địa vị sinh hoạt và văn hóa khả quan. Một đời sống đủ sự cần về vật chất nếu không có gì cản trở, sẽ rất thuận tiện cho mọi người đua nhau sống đạo đức và tiêu dùng tiền của cho khôn ngoan.
6. Phục hưng lại quy tắc xã hội.
- Những điều ta giãi bày từ trước chỉ liên quan đến sự chia của phân công cho từng cá nhân cho hợp lý. Trực tiếp thì không liên quan gì tới quy tắc xã hội, mà Đức Lêô XIII đã tận tâm quyết phục hưng lại, theo đạo tự nhiên và nhất là theo đạo phúc âm tuyệt đối cao thượng. Để tăng cường cho phong trào ngài đã nêu lên, để hoàn tất công việc cần phải thực hiện, để giúp các gia đình hưởng lợi và hái hoa quả tốt đẹp do công việc ấy làm nẩy nở ra, thì ta phải chú tâm tới hai việc cần thiết này: thứ nhất là cải tạo mọi cơ cấu xã hội, thứ hai là cải thiện phong hóa mỹ thuật.
* Cải tạo mọi cơ cấu xã hội.
a). Phận sự chính phủ quốc gia.
Đã nêu lên vấn đề cải tạo mọi cơ cấu xã hội, tự nhiên ta phải nhắc đến phận sự chính phủ. Đã đành chính phủ can thiệp thì không chắc đã giải quyết vấn đề ấy một mình được. Nhưng từ khi cá nhân chủ nghĩa toàn thắng, các phong trào xã hội xưa kia đã lập ra bao nhiêu đoàn thể bảo vệ đời sống đủ mọi phạm vi một cách điều hòa và hiệu nghiệm. Trên mặt trận xã hội chỉ còn tư nhân và chính phủ tương tranh với nhau mà thôi. Chế độ xã hội bị thiên lệch; quốc gia chịu thiệt khôn xiết kể; các hội đoàn kia ngừng hoạt động. Chính phủ phải thay thế vào đó; nó phải cúi lưng dưới bao gánh nặng và bao trách nhiệm, nó không thể nào gánh lấy một mình.
Đành rằng lịch sử làm chứng, không ai hồ nghi được. Tình trạng xã hội đã biến đổi nhiều. Có bao nhiêu việc xưa kia các hội đoàn tư nhân phụ trách được, nhưng bây giờ chỉ những tổ chức cộng đồng rộng lớn mới đảm nhiệm nổi. Nhưng dầu sao có một nguyên tắc xã hội học rất quan trọng không thể thay đổi, và cũng không lay chuyển được: Có những trọng trách tư nhân đủ năng lực và phương cách gánh vác. Cất những trọng trách khỏi tư nhân và giao uỷ hết cho chính phủ là lỗi đến công bằng xã hội. Cùng một lẽ ấy, cất khỏi những hội đoàn tư nhân các trọng trách họ gánh vác được, mà trao lại cho những tổ chức cộng đồng vừa rộng rãi vừa cao lớn, là đảo lộn cả quy tắc xã hội, và gây bao thiệt hại cho quốc gia. Chính phủ can thiệp vào vấn đề xã hội, thì chỉ có quyền nâng đỡ công dân, chứ không có quyền chi phối hay phá hoại đời sống tự nhiên của họ.
- Bởi thế cho nên, chính phủ phải nhường cho các hội đoàn tư nhân những phận sự họ đảm nhận được. Chính phủ chi phối những phận sự ấy thì làm sao lãng những việc quan trọng chính quyền phải đảm nhiệm. Hay hơn là nhường cho công dân những công việc, công dân làm được, để hoàn tất những công việc chỉ có chính phủ mới làm được một cách tự do mạnh mẽ hiệu nghiệm hơn. Tức là chỉ huy, kiểm soát, thúc đẩy hay thắng hãm những hành động dân sự, tùy theo hoàn cảnh thời thế bắt buộc. Nhưng nhà cầm quyền nên tin chắc rằng: quy tắc xã hội càng hoàn hảo, các hội đoàn càng làm việc theo đúng phận sự bổ túc chính phủ, thì chính phủ càng mạnh quyền và càng được uy tín, rồi mọi công vụ càng dễ tiến triển và gây hạnh phúc hơn.
b). Cộng tác riêng của các liên đoàn công nghệ.
- Vật đích đầu tiên chính phủ và các công dân ưu tú cần phải theo đuổi là tận tâm chấm dứt những sự tương tranh giữa các giai cấp xã hội, và luôn luôn cố gắng gây nên, cùng thúc đẩy tinh thần đoàn kết chặt chẽ thân mật giữa các nhà chuyên nghiệp.
Cho nên chính sách xã hội phải chân thực tu bổ lại các liên đoàn công nghệ.
Quả thực tình trạng xã hội hiện là tình trạng căng thẳng, nên bấp bênh và hằng lung lay. Lý do là vì xã hội căn cứ vào các giai cấp đầy những tham vọng và những căm hờn kình địch nhau, nên lúc nào chiến tranh cũng có thể bùng nổ bất ngờ. Nghiệm như lời Đức Tiên Giáo hoàng đã nói, cần lao không phải là đồ mua bán. Nó thông phần nhân cách của công nhân. Người ta không thể nào đổi việc làm lấy tiền lương, theo lối thị trường. Nhưng dầu sao, đời ta bây giờ luật “cung cầu” cũng được áp dụng vào cần lao, nên xã hội bị chia thành hai giai cấp, thành hai phe: kẻ mướn thợ và kẻ làm mướn. Cuộc bàn tán giữa đôi bên, mở rộng như một bãi chiến trường cho kẻ thù địch kịch liệt đánh nhau. Thật là một cảnh lộn xộn đưa xã hội đến bại hoại. Nên ai cũng thấy rõ, phải tìm một giải pháp thượng khẩn và hiệu nghiệm. Vậy không có giải pháp nào hiệu nghiệm để chữa hẳn tệ đoan kinh khủng này, bằng cách cải hóa hai giai cấp tương tranh kia, thành những tổ chức chuyên nghiệp hoàn bị. Các công nhân nhập vào những tổ chức ấy, sẽ không còn được nhận hay bị từ chối, tùy theo địa vị của họ đối với nền cần lao, bèn là tùy theo những hành động xã hội, họ tự nhiên phải tham gia. Tỉ dụ như những người cùng một khu vực, thường kết thành một thị xã thể nào, thì những người cùng một công nghệ hay cùng một chức nghiệp tự nhiên cũng hướng về cùng một tổ chức chuyên nghiệp thể ấy. Đó là một xu hướng hiển nhiên, đến nỗi các nhà xã hội học thường cho là những cơ quan có lẽ không thiết yếu, nhưng ít nhất cần thiết của xã hội.
- Thánh TÔMA nói: Trật tự vốn nảy ra bởi những yếu tố khác nhau, nhưng xếp đặt điều hòa theo một nguyên tắc duy nhất. Vậy tất cả mọi công dân là yếu tố của xã hội được hiệp lại với nhau theo một nguyên tắc duy nhất, thì xã hội mới có quy tắc tuyệt đẹp. Nguyên tắc duy nhất đó, là tăng gia sản xuất mỗi người theo nghề nghiệp riêng, hay là một lòng phụng sự cởi mở thành thực, nhất thống mọi hành động riêng của các chủ nhân và công nhân. Hay nói rộng ra, về đủ mọi chức nghiệp, nguyên tắc ấy sẽ là công ích, mà tất cả mọi chức nghiệp phải gây dựng theo năng lực riêng và bằng những minh phối đủ mọi hành động của chúng. Sự minh phối này sẽ càng tăng cường và càng hiệu nghiệm, thì tư nhân và các chức nghiệp sẽ càng trung thành và tiến triển hơn trong phạm vi chuyên biệt của họ.
Suy đến những điều nói trên ta phải kết luận rằng: những liên công nghệ kia, đối nội thì phải đề cao ích lợi chung của từng công nghệ trên hết. Những đối ngoại, quan trọng nhất là liệu thể nào cho những hành động chung luôn luôn quy về công ích quốc gia. Còn những vấn đề do ích lợi riêng của từng chuyên nghệp gây nên, nhất là những vấn đề thuộc về lợi ích của các chủ nhân hay lợi ích của các công nhân; tỉ dụ như lúc bên này phải đề phòng khỏi bị bên kia lạm dụng hay làm hại, thì bên nào bên nấy sẽ bàn luận riêng để tìm giải pháp cho từng vấn đề một.
- Ta cần gì phải nhắc lại những huấn dụ của Đức Lêô XIII về các chính thể. Ai cũng còn nhớ. Vậy những huấn dụ đó ta rất có thể áp dụng vào những liên đoàn công nghệ, phải lập ra trong đủ mọi chi nhánh chuyên biệt. Ta nói: có thể áp dụng, vì phạm vi xã hội có phần nào giống nhưng cũng có phần khác hẳn phạm vi chính trị. Ý Ta rằng: trong phạm vi chuyên nghiệp cũng như trong phạm vi chính trị, dân chúng có quyền tự do nhận chính thể này hay chính thể khác, miễn là mọi đòi hỏi công bằng và công ích được tuân giữ, tôn trọng.
Những dân cư cùng một thành thị, quyết theo đuổi một mục đích chung, thì đã có thói quen lập những hội đoàn thích hợp với mục đích ấy. Rồi ai cũng tự do nhập hội hay đứng ở ngoài tùy ý. Vậy những người cùng một chuyên nghiệp cũng thế. Họ có quyền tự do hội họp, để thực hành những công việc liên hệ với chuyên nghiệp của họ. Đức Tiên Giáo hoàng đã diễn tả một cách tuyệt bút, rõ rệt và tỉ mỉ, những hội đoàn ấy phải tổ chức như thế nào. Ta chỉ cần nhấn mạnh thêm vào một điều rất quan trọng: loài người ai nấy cũng tự do lập hội tư nhân, và tổ chức nội quy hay định luật tùy theo mục đích riêng của từng đoàn. Vậy quyền tự do lập hội trong một chi nhánh chuyên nghiệp gồm cả quyền lập những liên hội mở rộng cho những nghề nghiệp khác nhau. Mong những hội đoàn tư nhân đã được thiết lập và đang kết quả tốt đẹp, mở đường cho những liên đoàn ta mới nhắc đến và căn cứ vào những nguyên tắc xã hội học công giáo, tận tâm hiệp lực lập ra càng sớm càng hay.
Bài này đã được xem 1003 lần!