* Đề cao một nguyên tắc chính đáng chỉ dẫn được mọi hành động kinh tế.
- Còn một việc khẩn cấp nữa, cũng liên hệ với những việc kể trên: xã hội không thể nào xây dựng được trên nền tảng giai cấp tương tranh. Cùng một lẽ ấy, nền kinh tế không thể nào bền vững trên luật tự do cạnh tranh. Tất cả mọi lầm lỗi của kinh tế cá nhân học khoa, từ ở nguồn gốc ấy mà ra, là một ảo tưởng. Kinh tế học khoa này, vì quên bỏ hay chưa biết tính cách xã hội và luân lý của kinh tế, đã lầm tưởng rằng: chính quyền phải bỏ mặc kinh tế phát triển theo luật riêng của nó, mà không bao giờ can thiệp cưỡng bách bất cứ bằng cách nào. Luật cung cầu hay tự do cạnh tranh, là một điều luật vững chắc chỉ dẫn kinh tế mạnh mẽ hơn trí tuệ minh mẫn của bất cứ ai. Áp dụng luật tự do cạnh tranh một cách điều độ phải chăng, thật là một sự hợp lý và hữu ích. Nhưng luật ấy không sao làm luật mực căn bản cho một nền kinh tế công bằng. Những biến cố đã xảy ra, từ khi thế giới tuân theo chủ nghĩa cá nhân thiệt hại đó, chứng minh điều ấy quá rõ rệt. Thành ra, không việc gì khẩn cấp cho bằng lập lại cả nền kinh tế trên một nguyên tắc công bằng và hiệu nghiệm hơn. Luật kinh tế độc tài vừa mới thay thế luật kinh tế cá nhân, cũng không thể nào đóng vai chính này được. Luật kinh tế độc tài, tự nhiên vô độ và cường bạo. Muốn gây lợi ích cho nhân loại, nó phải tìm sẵn một ngoại cương, và một năng lực chỉ huy, tự nhiên nó không có. Vậy, để nghiêm ngặt chỉ huy những lực lượng kinh tế vô độ này, ta phải đề cao những nguyên tắc cao quý hơn, tức nguyên tắc công bằng và bác ái xã hội. Công bằng xã hội phải tẩm nhiễm tận gốc mọi cơ cấu xã hội và đời sống xã hội nhân quần. Bằng chứng rõ ràng nó có hiệu nghiệm và ảnh hưởng sâu rộng, là nó tạo ra một quy tắc pháp luật và xã hội thấm nhập luôn cả nền kinh tế.
- Còn bác ái xã hội phải nên như hồn sống của xã tắc, do chính quyền lập ra bênh vực và bảo vệ đắc lực. Chính quyền càng nhường cho kẻ khác những việc không phải là việc riêng mình, thì càng thuận bề dễ dàng làm trọn phận sự tối hệ này.
Còn một điều đáng ghi nhớ: về phương diện kinh tế, các dân nước hỗ tương, tùy thuộc và liên kết mật thiết với nhau. Nên họ phải trao đổi ý kiến và tận tâm hiệp lực với nhau để nhờ những giao kèo và những cơ cấu khôn ngoan, mà gây dựng một nền công tác giao dịch hữu ích có lợi nhiều trong phạm vi kinh tế vạn quốc.
Vậy tu bổ lại mọi thành phần của cơ thể xã hội, phục hưng lại trong phạm vi kinh tế một nguyên tắc chỉ huy công bằng, thì tổ chức xã hội sẽ lại hoàn bị, và đáng được ta áp dụng vào nó những lời vàng ngọc Thánh Phaolô đã nói riêng về nhiệm thể Chúa Kitô rằng: “Nguyện xin Người chiếu theo nguồn vinh hiển phong phú Người mà ban cho anh chị em dũng lực của Chúa Thánh Linh, để anh chị em đủ sức cải hóa lòng trí theo ý Chúa.”
Mới đây ai cũng thấy xuất hiện một tổ chức đặc biệt vừa có tư cách nghiệp đoàn, vừa có tư cách hợp tác xã. Vì tổ chức ấy có liên hệ với mục đích bức thông điệp này, nên thiết tưởng ta phải nhắc đến và thêm một vài nhận xét thích nghi.
Chính phủ công nhận tổ chức nghiệp đoàn ấy, là một tổ chức hợp pháp. Nhờ đó tổ chức nghiệp đoàn này hầu như độc quyền, để đại diện các chủ nhân và công nhân: để ký kết những giao kèo hay những điều ước chung về đủ mọi vấn đề cần lao. Ai muốn thì tùy ý gia nhập hay đứng ở ngoài nghiệp đoàn cũng được. Về đàng ấy nói được, nghiệp đoàn này là một tổ chức tự do. Vì, về đàng khác, nó có tư cách bắt buộc. Các nhân viên đủ mọi chuyên nghiệp, thoạt khi đã nhập vào thì phải nộp tiền nguyệt liễm[HB3] . Họ cũng bắt buộc chịu đủ mọi đảm phụ đặc biệt bất cứ họ là chủ nhân hay là công nhân. Hơn thế nữa, mọi giao kèo cần lao nghiệp đoàn ký kết, cũng buộc chung tất cả các nhân viên. Dầu sao ta cũng nhận thực, đã có lời công nhiên tuyên bố rằng: nghiệp đoàn pháp lý này không bãi bỏ những công đoàn đã có sẵn.
- Các nghiệp hội nhập vào tổ chức ấy, kết tinh nên bởi những đại diện nghiệp đoàn chủ nhân hay công nhân, cùng một chức nghiệp hay một công nghệ. Họ được chứng nhận là những cơ quan hay những cơ cấu của chính phủ, để điều khiển và minh phối những hành động riêng của từng nghiệp đoàn khi những hành động ấy liên hệ tới những lợi ích chung. Các cuộc đình công hay đồng giải công đều cấm ngặt. Các nhân viên xích mích điều gì không sao đồng ý được, thì ban chấp hành nghiệp đoàn can thiệp và toàn quyền giải quyết vấn đề.
Một tổ chức như vậy, dầu ta chỉ diễn tả sơ qua, cũng đủ rõ là một tổ chức có ích lợi nhiều. Những điểm chính là: cộng tác điều hòa giữa các giai cấp, những hành động và tổ chức của chủ nghĩa xã hội được loại bỏ; quyền chỉ huy êm đẹp của một ban chấp hành chuyên biệt.
Nhưng đã nêu lên một vấn đề quan trọng thể ấy, ta nên căn cứ vào những nguyên tắc kể trên, và những nguyên tắc kèm theo sau, mà nhận rằng: không thiếu người có thiện chí lo ngại, vì sợ chính quyền vùi lấp những sáng kiến tư nhân, thay cho cứ đứng ở ngoài bênh vực và ủng hộ đắc lực. Người ta lại e rằng: tổ chức ấy dần dần sẽ hóa nên một tổ chức viên chức chính trị. Dầu nó hữu ích nhiều như ta vừa mới nói, nó rất có thể sai mục đích mà phụng sự những chủ nghĩa chính trị riêng biệt, thay vì thành tâm gây dựng một đời sống xã hội điều hòa hơn.
- Ngoài ra theo thiển ý của ta, để gây dựng một đời sống xã hội điều hòa đáng mong thể ấy, và gây lợi ích chung của cộng đồng xã hội; trước hết và trên hết ta cần phải có ơn Chúa ban dồi dào rồi mới cần đến sự hợp tác chặt chẽ của tất cả mọi người còn thiện chí. Vật đích cao siêu ta đang nêu khởi, cũng phải có sự cộng tác của những người chuyên môn về kỹ thuật, chuyên nghiệp về xã hội, và hơn thế nữa, phải căn cứ vào học thuyết và những thực hành của Thiên Chúa giáo, không phải do công giáo tiến hành thân hành chỉ huy: (công giáo tiến hành không trực tiếp tham gia vào những hành động nghiệp đoàn hày chính trị) bèn là do những người đã được công giáo tiến hành huấn luyện theo những nguyên tắc xã hội công giáo, bởi vậy đã sẵn sàng trở nên những cán bộ thực hành và truyền bá học thuyết xã hội ấy, dưới quyền chỉ dẫn của Giáo hội. Phải, Giáo hội trong phạm vi kinh tế xã hội ta mới diễn tả, cũng như trong đủ mọi phạm vi đời sống liên hệ với luân lý, cũng không thể nào quên nhãng hay bỏ phớt qua sứ mạng gìn giữ và rao giảng chân lý Thiên Chúa đã uỷ cho. Nhất là lúc các vấn đề luân lý được nêu lên và được giải quyết.
- 65. Phục hưng lại nền phong hóa mỹ tục.
Ngoài ra những điều ta mới nhắc lại về việc tu bổ và hoàn tất quy tắc xã hội, sẽ không bao giờ thực hiện được, nếu ta không phục hưng lại nền thuần phong mỹ tục. Điều ấy lịch sử cũng chứng minh không ai từ chối được. Xưa kia đã có một xã tắc, dầu không hoàn bị, nhưng cũng thích hợp với thời thế hoàn cảnh và những nguyên tắc của đạo lý tự nhiên. Xã tắc ấy đã biến mất từ lâu. Không phải vì nó không đủ sức biến hóa cho thích hợp với những hoàn cảnh và những nhu cầu mới đâu. Lý do chính hoặc là vì con người theo tính vị kỷ cứng cỏi không chịu mở cửa cho số người ngày càng thêm đông, tình nguyện xin gia nhập vào tổ chức của họ; hoặc là vì loài người bị những lý thuyết tự do quyến rũ làm mê ảo, hay những tà thuyết khác, khiến họ trục xuất mọi xã tắc, không còn chịu tùng phục bất cứ quyền bính nào nữa.
Vậy ta chỉ còn một điều cần giải bày nữa, diễn tả chế độ kinh tế hiện tại, và chủ nghĩa xã hội mà ta không ngừng phi bác nó. Rồi luận xét đôi bên theo công lý. Đã khám phá ra lý do của mọi tệ đoan hiện tại, thì ta sẽ đề nghị phương dược cần thiết nhất và hiệu lực nhất, tức là cải tạo phong tục.
III. Những biến cố lớn đã xảy ra từ thời Đức Lêô XIII
* 1. Nền kinh tế biến chuyển
- Kể từ Đức Lêô cho đến bây giờ, nền kinh tế và chủ nghĩa xã hội đã biến đổi tận cội rễ.
Nền kinh tế đã biến đổi là một hiện tượng lịch sử quá hiển nhiên. Anh em thừa biết chế độ kinh tế mà Đức Tiên Giáo hoàng đáng ghi nhớ trong bức thông điệp RN, đã có kiến thức hơn hết là chế độ tư bản và cần lao bổ khuyết nhau: người thì xuất vốn, người thì làm công. Ngài nói rất đúng rằng: tư bản không cần lao, cần lao thiếu tư bản, thì cả hai cũng không thể nào có được.
Chế độ tư bản vốn tính không hư ác, nhưng đã hư hỏng nhiều. Chế độ ấy được Đức Lêô XIII hết sức tìm tu bổ lại theo công lý. Tự nhiên nó không đáng kết án đâu. Nó hư ác không phải vì nguyên tắc căn bản. Nó hư đi dần dần, vì người tư bản mướn thợ thuyền để xí nghiệp và chế độ kinh tế gây lợi ích riêng, nên họ không quản gì đến nhân cách của công nhân, tính cách xã hội của cần lao, và những đòi hỏi của công bằng và công ích. Đó là phạm đến quy tắc tự nhiên của xã hội.
Đành rằng, hiện nay chế độ ấy không được thực hiện noi theo ở khắp mọi nơi. Hiện có một chế độ khác nữa hấp dẫn một phần quan trọng nói được là phần đa số của nhân loại. Tỉ dụ như trong giới canh nông, biết bao người còn sinh sống nguyên vì những công việc liêm chính xứng đáng. Những chế độ kinh tế ấy cũng không thiếu sự trắc trở đáng lo Đức Tiên Giáo hoàng đã nhắc đến, và chính ta cũng đã lược qua trong thư này.
Nhưng từ khi bức thông điệp của Đức Lêô XIII được phát hành, vì thế giới được kỹ nghệ hóa nhiều, thì chế độ tư bản ngày càng ảnh hưởng sâu rộng. Nó dần dần xâm chiếm và ăn sâu vào tình trạng kinh tế xã hội hiện tại. Cả những người đứng ở ngoài cũng thụ hưởng nhiều, thụ hưởng cả phần ích và phần họa của nó nữa. Thành ra nó ghi khắc vào thế giới ngày nay, những tính cách riêng của nó.
Vì thế lược thảo những biến cố lớn đã xảy ra từ đời Đức Lêô XIII đến bây giờ không những là giúp ích cho những người thụ hưởng đại kỹ nghệ mới và chế độ tư bản mà thôi, mà lại mưu ích cho cả nhân loại nữa.
* Nền Kinh tế độc tài nhường chỗ cho chủ nghĩa tự do cạnh tranh.
- Đặc điểm của đời ta bây giờ không phải chỉ là sự tập trung những quyền hành mạnh lớn, thành một quyền kinh tế trong tay một số ít người, không phải là chủ nhân, mà chỉ là thụ thác hay quản lý, tùy ý sử dụng.
Chuyên quyền ấy mạnh nhất ở những người tích trữ và độc tài cầm giữ tiền bạc. Số tiền được thu lại, họ vừa định cách dùng, vừa phân phát hoàn toàn theo ý muốn. Nhờ đó trong cơ thể kinh tế, họ là quả tim phát máu, họ là nguồn sống còn. Không được họ đồng ý, không ai còn thở được.
Chuyên quyền kinh tế và tài chánh tập trung trong tay một số ít người như thế, là đặc điểm nền kinh tế xã hội hiện tại. Nó là kết quả tự nhiên của một chủ nghĩa cạnh tranh hoàn toàn tự do, không có chừng hạn. Kẻ mạnh quyền đứng vững, còn kẻ khác đều ngã thua. Kẻ mạnh quyền sự thường là những ai? Thưa sự thường là những người vô lương tâm, và tranh đấu luôn bằng võ lực, tâm lý.
Chuyên quyền kinh tế và tài chánh, tự nhiên thúc đẩy kẻ cầm nó trong tay, mưu đồ cướp luôn cả chính quyền, theo ba giai đoạn: thứ nhất là họ lo sao cho được độc quyền về kinh tế. Thứ hai họ nhảy vào chiến trường chính trị. Đã lấy chính quyền rồi, họ mới dùng những thủ đoạn và sức mạnh của nó để tiếp tục tranh đấu trong phạm vi kinh tế. Thứ ba là sự tranh đấu dữ dội ấy chuyển sang phạm vi quốc tế: hoặc các chính phủ dùng quyền và góp sức với nhau để mở mang nguồn lợi kinh tế của những người thuộc thẩm quyền của họ, hoặc chính phủ tự đắc họ mạnh sức rộng quyền về kinh tế để giải quyết mọi vấn đề chính trị, theo lợi ích riêng của họ.
* Hậu quả khốc hại.
- Những hậu quả khốc hại do chủ nghĩa cá nhân áp dụng và kinh tế đã gây nên, thì anh em thừa biết và không ngừng cảnh cáo: chế độ tự do cạnh tranh đã tự tiêu, thay thế nó bây giờ chế độ kinh tế độc tài mới xuất hiện. Trước đây người ta chỉ tham lợi, bây giờ họ lại tham quyền. Đời sống kinh tế đã trở nên hung ác, vô tình, cứng cỏi thật là kinh khủng. Lại thêm vào đó những phận sự riêng của chính quyền, đều lẫn lộn với những hành động kinh tế. Nguy nhất là chính quyền suy đồi. Thay cho trị dân một cách cao thượng, vô vị lợi và khách quan theo những đòi hỏi của công ích và công bằng; các chính phủ chỉ còn là nô lệ, là khí cụ vô ý thức phụng sự mọi dục tình và mọi tham vọng của Tư Lợi. trong phạm vi quốc tế, thì từ ở nguồn duy nhất này lại chia ra hai dòng khác nhau: trước là chủ nghĩa chủng tộc quốc gia, hay chủ nghĩa kinh tế độc tài; sau (cũng đáng ghét và thiệt hại lớn) là chủ nghĩa quốc tế, hay chủ nghĩa tiền bạc quốc tế độc tài. Tức là, chỗ nào có lợi, chỗ ấy mới là quê tôi.
* Phương dược hiệu nghiệm để chữa tệ đoan.
- Ta nên chữa tệ đoan kinh khủng này bằng những phương dược nào? Trong phần thứ hai bức thông điệp này, ta đã chỉ dạy rõ ràng. Ta chỉ cần nhắc lại những điểm chính sau đây: chế độ kinh tế hiện tại căn cứ vào tư bản và cần lao. Vậy ta hãy áp dụng vào hai yếu tố căn bản ấy, những nguyên tắc lý trí và xã hội học công giáo. Nhận thực và thực hành những nguyên tắc tắc ấy vào sự cộng tác giữa cần lao và tư bản, thì mới giải quyết vấn đề theo công lý. Không muốn vấp phải hoặc vào cá nhân chủ nghĩa, hoặc vào chủ nghĩa xã hội, ta lại phải đề cập hai tính cách cá nhân và xã hội của tư bản và của cần lao. Tư bản phải đối đãi với cần lao và cần lao phải đối đãi với tư bản theo đúng luật công bằng giao hoán, nhờ đức bái ái của Chúa Kitô bổ khuyết không ngừng. Chế độ tự do cạnh tranh lại phải thực hành trong những chừng hạn của công lý. Chuyên quyền kinh tế lại phải thân thiết tùng phục chính quyền trong đủ mọi phạm vi chính quyền phải can thiệp. Sau hết các cơ cấu của từng xã hội quốc gia, phải cải hóa mọi sự giao dịch giữa nhân loại, theo những đòi hỏi của công ích, tức là công bằng xã hội. Nhờ vậy nền kinh tế rất quan trọng trong đời sống xã hội sẽ quay về với sự chính trực và thế quân bình tự nhiên của xã tắc.
2. Những biến chuyển của chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội, mà Đức Lêô XIII đã nhắm đến trong bức thông điệp RN cũng biến chuyển nhiều. Nói được là không kém chế độ kinh tế. Đời Đức Tiên Giáo hoàng, chủ nghĩa xã hội còn thống nhất. Về phần học thuyết nó rất rõ ràng, về phần tổ chức nó thành một cơ thể duy nhất. Nhưng từ đó, nó đã chia làm hai phe, không những tương phản nhau mà nhiều khi lại kình địch nhau kịch liệt. Nhưng phe nào, cũng giữ tư cách phản giáo mà chủ nghĩa ấy có sẵn ngay từ đầu.
a). Phe quá khích hay là cộng sản.
Phe thứ nhất cũng thuộc về chủ nghĩa xã hội đã biến chuyển luôn với chế độ kinh tế tư bản, mà quy về cộng sản. Cộng sản trong lý thuyết cũng như trong thực hành, không những ngấm ngầm mà lại công khai, không những theo một đường lối quanh co, mà lại theo một đường lối thẳng băng, bằng những phương pháp hiệu lực kể luôn cả võ khí, để quyết theo đuổi và đạt tới hai vật đích rõ ràng:
Gây sự giai cấp tương tranh kịch liệt, bài trừ mọi quyền sở hữu. Nó quyết đấu tranh cho đến khi đạt chiến thắng. Không có việc gì nó không dám làm. Không có sự gì nó kính trọng. Chỗ nào nó đã chiếm lấy chính quyền, nó tỏ mình là dã man và vô nhân đạo đến cực độ. Ai chưa thấy thì không dám tin. Những việc nó làm toàn là những việc kỳ khôi kinh khủng. Những sự bách hại, những bại hoại nó đã chồng chất ở miền đông Âu Châu và ở miền Viễn đông, chứng tỏ điều ấy rõ ràng. Kinh nghiệm hằng ngày, như ai cũng thừa biết, cũng làm chứng cộng sản là kẻ thù địch của Giáo hội và Thiên Chúa nữa. Thiết tưởng ta không cần nói dài về tính cách vô nhân đạo và bất công của cộng sản, cho các tín hữu của Giáo hội ý thức. Nhưng ta rất ưu sầu khi thấy kẻ cầm quyền vô tư lự, hầu như cứ khinh thường một tai họa lớn như thế và cứ thụ động chẳng làm gì để ngăn cản những tà thuyết cộng sản truyền bá khắp nơi, và những việc hung ác sát nhân nó thường dùng toàn là những sự ghê tởm đưa xã hội đến bại hoại. Nhưng đáng kết án hơn cả là những người biếng nhác thụ động, không bài trừ hay cải hóa những tình trạng bất công làm cho đại chúng tức tối cực điểm, và như vậy cứ mở đường cho đảo lộn và phá hoại cả xã hội.
b). Phe điều độ, còn giữ tên chủ nghĩa xã hội.
- Phe còn giữ tên là chủ nghĩa xã hội, thì quả thật nó điều độ hơn. Nó nhất định không dùng võ lực. Nhưng sự thường nó không loại ra hẳn hai vật đích cộng sản hằng theo đuổi, tức là sự giai cấp tương tranh và sự bãi bỏ quyền sở hữu. Hai vật đích đó, chủ nghĩa xã hội cũng theo đuổi, nhưng một cách điều độ và êm dịu hơn.
Hơn thế nữa, hầu như chủ nghĩa xã hội vừa khiếp sợ những nguyên tắc nó khởi xướng, vì kinh khủng vì cộng sản áp dụng những nguyên tắc ấy một cách quá hung bạo, nên nó dần dần thiên về học thuyết xã hội công giáo, và càng ngày càng bước đến gần.
Ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy rất nhiều đòi hỏi của chủ nghĩa xã hội thật giống như những yêu cầu chân chính của những người tận tâm tìm cải hóa xã hội theo học thuyết công giáo.
Về hai vật đích cộng sản theo đuổi, nó điều độ và êm dịu hơn. Các giai cấp tương tranh mà bỏ óc kình địch và oán giận nhau, tất nhiên sẽ quay về việc tranh luận tử tế, tìm phân công chia lợi cho công bằng. Việc ấy chưa nói được là hòa bình và hạnh phúc xã hội ai cũng mong ước, nhưng dầu sao cũng là một bước đầu tiên trên đường đưa tới sự cộng tác giữa các chuyên nghiệp.
Kẻ quyết bài trừ quyền tư hữu, cũng bớt phần hung hăng. Họ không còn đòi giữ các khí cụ sản xuất độc quyền nữa, một chỉ đòi lại cho xã hội quyền ưu tiên mà phe tư bản đã cướp lấy và dành riêng một cách vô lý. Quả thật quyền ưu tiên đó không phải là của tư bản, mà bèn là của chính quyền. Cứ mãi như vậy, chắc có ngày chủ nghĩa xã hội điều độ này sẽ không khác chủ nghĩa xã hội công giáo bao nhiêu. Ta phải nhận thực rằng có những thứ của cải phải dành cho cộng đồng xã hội, vì những của cải ấy ban cho chủ nhân một chuyên quyền kinh tế mạnh. Vì nó gây nguy cho công ích, thì không nên cho chủ nhân cầm trong tay.
Những yêu cầu và những khiếu nại ấy, thích hợp với công lý, không có điều gì trái ngược với chủ nghĩa chân chính của công giáo, nhưng cũng không nói được là quan điểm riêng của chủ nghĩa xã hội. Những kẻ không đòi hỏi điều gì khác, thì thật là không có lý do nào mà nhập vào phe xã hội.
Đàng khác anh em chớ lầm tưởng các phe đảng không cộng sản, nhưng cũng tuyên xưng chủ nghĩa xã hội, đều biên ghi điều ấy trong chương trình riêng, hay đều đồng ý thực hiện điều ấy trong hành động của họ. Nói rộng ra, các phe đảng ấy chỉ đồng ý về một điểm không bài trừ sự giai cấp tương tranh và quyền tư hữu, mà chỉ làm cách nào cho hai điều đó bớt phần thiệt hại thôi.
Có cách nào giải hòa với chủ nghĩa xã hội chăng?
- Vì vậy chỗ nọ chỗ kia cũng có người quyết đoán một cách vô lý hay nêu lên vấn đề rằng: những nguyên tắc chủ nghĩa xã hội đã êm dịu đi mà biến dần, thì chủ nghĩa xã hội công giáo cũng phải biến dần cho điều độ hơn, để có thể đón tiếp chủ nghĩa xã hội trên một đường lối chung trung bình hơn, thật không thiếu gì những kitô hữu lầm tưởng như vậy. Họ tưởng hấp dẫn được phe xã hội về với họ, nhưng uổng công. Ai muốn làm tông đồ ngay giữa các đảng viên chủ nghĩa xã hội thì phải đề cao và truyền bá chân lý của đạo công giáo công khai đầy đủ vẹn toàn, không khi nào thiện cảm với tà thuyết nào. Nếu họ thành thực tuyên xưng đạo phúc âm, thì trước hết họ phải trình bày cho các đảng viên chủ nghĩa xã hội rằng: Những khiếu nại của họ càng thích hợp với công lý thì càng được đức tin công giáo bảo vệ mạnh mẽ, và càng chắc được chủ nghĩa bác ái của đạo công giáo thêm sức nhiệm cho họ được thỏa mãn trong thực hành.
Về hai mục đích: giai cấp tương tranh và bài trừ quyền tư hữu, chủ nghĩa xã hội đã biến dần và êm dịu đi. Nhưng ta đâu có nói được rằng về hai vật đích ấy chủ nghĩa xã hội không còn đáng trách điều gì. Chủ nghĩa ấy đã bỏ óc phản tôn giáo Chúa Kitô chưa? Đó là vấn đề khiến bao tín hữu kitô còn ngần ngại.
- Bao tín hữu nhận thức rằng: họ không sao loại ra hay bãi bỏ những nguyên tắc xã hội của đạo công giáo. Nên họ đưa mắt nhìn về tòa thánh tha thiết thỉnh cầu ta giải quyết vấn đề cho họ biết rõ. Chủ nghĩa xã hội đã cải tà quy chính, thì đã đủ thành thực cho các tín hữu trung thành với học thuyết xã hội công giáo được nhập đảng họ chưa? Ta chiều theo tình cha con không muốn cho họ nóng ruột đợi chờ. Nên ta quyết định như sau: chủ nghĩa xã hội bất phân phạm vi học thuyết, lịch sử hay thực hành, dầu đã quay về với chân lý và công bằng một phần nào, như ta vừa mới nói. Nhưng cũng không thể được đồng nhất với học thuyết xã hội công giáo, vì quan niệm xã hội của nó trái nghịch với quan niệm công giáo một trăm phần trăm.
Về quan niệm xã hội nói chung, quan niệm tư cách xã hội của con người nói riêng; chủ nghĩa xã hội trái hẳn với công giáo.
Theo quan niệm công giáo, con người có tư cách xã hội mà lại được sống ở dưới thế, cứu cánh là phải sống trong xã hội dưới quyền tối cao của Thiên Chúa, là phương pháp đào tạo và phát triển đủ mọi tài năng hồn xác của mình, để tán tạ và làm vinh danh Đấng dựng nên mình, rồi tận tâm với nghề nghiệp và sứ mệnh riêng, hầu cho được hưởng phúc đời này và đời sau. Chủ nghĩa xã hội thì khác hẳn. Nó không biết gì đến cứu cánh cao thượng ấy là cứu cánh của tư nhân và xã hội. Nó đặt cứu cánh cộng đồng nhân quần, ở chỗ gây dựng các điều kiện cần thiết cho ai nấy cũng được khoan khoái thảnh thơi.
- Một nhận xét: cần lao tổ chức cho mọi người cộng tác vào, theo tài theo sức, thì hiệu lực hơn là bỏ mặc từng người làm việc lẻ tẻ. Vậy chủ nghĩa xã hội căn cứ vào đó mà kết luận rằng: mọi hành động kinh tế cần phải quốc hữu hóa, mà đặt dưới quyền chỉ huy của xã hội, nhất là về phương diện vật chất: vì theo ý họ đó là mục đích duy nhất của nền kinh tế, và là một sự cần thiết. Nên theo chủ nghĩa xã hội, về đủ mọi việc có liên quan với sự sản xuất, thì mỗi một tư nhân phải đặt mình trong tay xã hội và quyết tòng phục.
Hơn thế nữa, phải chiếm hữu những tài sản rộng lớn gồm đủ mọi phúc lợi đời sống có thể gây ra được. Điểm ấy tối quan trọng nên con người phải hy sinh những của quý hơn là của phần hồn, kể luôn quyền tự do để hiến toàn thân lệ thuộc một tổ chức sản xuất khổng lồ và hợp lý trí hơn.
Tổ chức xã hội sản xuất này, phạm đến phẩm cách đặc biệt của tư nhân. Nhưng phần thiệt hại này đối với những phúc lợi đủ thứ, mà xã hội sản xuất và phân phát cho tư nhân, cũng chẳng thấm vào đâu. Tư nhân áp dụng những phúc lợi do xã hội, gây nên cho nhu cầu và sở thích riêng thì sung sướng biết bao.
- Lý tưởng xã hội, mà chủ nghĩa xã hội mong đến, một đàng không thể nào thực hiện được ngoài sự áp bức cực độ của chính quyền; mặt khác cũng mặc ai nấy sống giả dối tung hoành, vì không còn chính quyền nào là chân thực. Lý do là không chính quyền nào căn cứ vào những phúc lợi vật chất thế tục được. Quyền bính chân chính chỉ do Thiên Chúa, vừa là nguyên lý vừa là cứu cánh của muôn vật thụ sinh.
Tín đồ công giáo, đảng viên xã hội, là hai danh hiệu mâu thuẫn với nhau.
Chủ nghĩa xã hội như bất cứ tà thuyết nào khác có phần sai, nhưng cũng có phần đúng (các Đức Giáo hoàng cổ kim đều xác nhận điều đó).
Nhưng dầu sao nó căn cứ vào một quan niệm xã hội sai lạc, không thể nào hòa giải với quan niệm của đạo công giáo xác đáng.
Hòa hợp chủ nghĩa xã hội với tôn giáo, và nhất là công giáo là một mâu thuẫn khó giải quyết được. Không ai là đảng viên chủ nghĩa xã hội và đồng thời giữ chức vị kitô hữu kiểu mẫu được.
Chủ nghĩa xã hội tái giáo dục tuổi thanh niên.
- Những điều ta mới nhắc lại, và còn minh nhiên công bố tại đây, đều phải áp dụng vào một tổ chức mới của chủ nghĩa xã hội. Tổ chức ấy chưa mấy ai biết rõ, nhưng nó bành trướng mạnh trong bao phe đảng thiên về chủ nghĩa xã hội hiện tại.
Nó cải hóa mọi tâm hồn và cả những thuần phong mỹ tục nữa. Mượn sức nhiệm của một tình nghĩa bè bạn giả mạo, nó hấp dẫn tuổi thanh niên nói riêng. Nhưng nó cũng tìm tẩm nhiễm đại chúng để đào tạo một con người xã hội hóa theo chủ nghĩa của nó.
Trong bức thông điệp “Thầy Chí Thánh” ta đã giảng giải về những nguyên tắc căn bản của một nền giáo dục Kitô hóa. Vậy ta không thể nào bỏ dịp này nữa, mà không chứng tỏ điều hiển nhiên này: mọi quan điểm và mọi thực hiện của chủ nghĩa xã hội về đàng giáo dục, đều trái ngược với nguyên tắc và tiêu chuẩn nền giáo dục của Chúa Kitô.
Tất cả những người nào không chịu góp sức nhiệt tâm mạnh bạo, chống trả những nguy nan do chủ nghĩa xã hội gây nên, thì hoặc giả vờ khinh thường, hoặc thành thực không biết những nguy nan kinh khủng ấy. Nên phận sự của ta là tiên báo cho họ biết những nguy nan đang đe dọa những người ấy, mà nói quyết rằng:
“Nền giáo dục mới của chủ nghĩa xã hội, thì cha đẻ là chủ nghĩa cá nhân tự do: người thừa kế là cộng sản Nga xô”.
Những kitô hữu đã nhập vào chủ nghĩa xã hội.
- Sự thật có vậy, thì anh em đoán được ta ưu sầu biết bao, khi thấy một số đông con yêu của ta rời bỏ chủ nghĩa công giáo mà nhập vào hàng ngũ chủ nghĩa xã hội. Ta không sao tin được! Lòng tin của họ còn toàn vẹn, ý chí của họ còn chính trực? Trong số tín hữu đó, người thì công khai ghi tên và tuyên xưng chủ nghĩa xã hội nói trên, người thì trôi theo nó, người thì bị bắt buộc công khai hay ngấm ngầm phải nhập vào các phe đảng xã hội.
Vì tình nghĩa cha con, ta hết sức lo âu và hằng tự hỏi, tìm hiểu làm sao mà họ đã sa vào cái trụy lạc ấy. Ta đã nghe vang dội bên tai những lời họ nói chữa mình rằng: Giáo hội và các tín hữu hằng đi sát với kẻ giàu sang mà chẳng lo gì đến công nhân, chẳng làm gì để cứu họ. Nên họ không có phương cách nào để bảo vệ quyền lợi của họ, ngoài phương cách nhập vào chủ nghĩa xã hội.
Thê thảm thay! đời nào cũng đã từng có, và đời ta bây giờ vẫn còn bao nhiêu người dầu tự đắc là kitô hữu, dầu còn ghi nhớ luật công bằng và bác ái cao siêu của Phúc Âm; họ không những bắt buộc phải trả cho từng người, những cái là của họ, mà lại phải cứu đỡ anh em túng thiếu như là cứu trợ chính Chúa Kitô, ấy thế mà họ vẫn cứ một lòng áp bức công nhân vì tư lợi.
Hơn thế nữa, cũng có kẻ lạm dụng đạo thánh để che khuất những sự bất công của họ, và thuận bề bác bỏ những khiếu nại chính đáng của công nhân làm việc cho họ. Thái độ độc ác này Ta sẽ không ngừng kết án. Chính vì họ mà Giáo hội vô tội đã bị cảnh cáo và mang tiếng là một tổ chức thông đồng với phe tư bản, không động lòng trắc ẩn trước sự ân cần và công lao của những người dân đen sống cực khổ không hưởng chút phúc lợi ở dưới thế. Thật là một nhận xét vô lý, một vụ bỏ vạ! tang chứng rõ ràng là:
Bài này đã được xem 1027 lần!