CÁC THÔNG ĐIỆP XÃ HỘI

*   Giáo dân phải đoàn kết và cộng tác với nhau một cách chặt chẽ thân mật.

  • Giáo dân nhiệt thành không quản gì công lao khó nhọc để gây dựng bao công cuộc vĩ đại, hoặc trong phạm vi xã hội kinh tế, hoặc trong phạm vi văn hóa và tôn giáo. Điều ấy ai cũng đã rõ. Nhưng vì những lực lượng Công Giáo đã quá phân tán, thì những công cuộc đáng khen kia đâm ra yếu lực và thiếu hiệu quả.

Vậy ta yêu cầu mọi người thiện chí, hãy đoàn kết lại chặt chẽ dưới quyền chỉ huy của các chúa chiên phụ trách Giáo hội. Nhờ vậy họ mới ra mặt trận thánh thiện và ôn hòa của Chúa Kitô; giao chiến và toàn thắng. Yêu cầu mọi người phục quyền Giáo hội, sống dưới ánh sáng của Giáo hội, cũng ra giao chiến, tùy theo năng lực, tài sức riêng, địa vị riêng, để góp một phần vào việc canh tân xã hội, mà chính Đức Lêô XIII trong bức thông điệp RN đã nêu khởi.

Không chút thiên vị những ý kiến riêng, một cứ sẵn sàng bỏ luôn những ý kiến sáng suốt hơn cả, vì công ích đáng quý hơn.

Họ phải đề cao hơn hết và ở khắp mọi nơi nước Chúa Kitô, làm cho Chúa Kitô hiển trị khắp thiên hạ.

Vì Chỉ có Chúa Kitô đáng được vinh danh toàn trị muôn đời. Vậy để toàn thể anh em và các con yêu quý hợp lại trong đại gia đình Công Giáo, Chúa đã uỷ cho ta phụ trách, luôn luôn đủ sức hoàn tất công việc ấy;

Để các công nhân và các lao động công giáo, ta yêu quý riêng vì được Chúa quan phòng uỷ thác cho ta săn sóc làm một với chủ nhân, được luôn luôn tận tâm với phận sự;

Ta hân hạnh đem hết tình cha con, ban phép lành Tòa Thánh.

Tại La Mã, gần Tòa Thánh Phêrô, 15,3,1931.

Năm thứ 10 ta được thụ phong Giáo hoàng.Piô XI


I.        THÔNG ĐIỆP OCTOGESIMA ADVENIENS

(BÁT THẬP NIÊN)

GIỚI THIỆU TÔNG THƯ

 Tông thư kỷ niệm 80 năm thông điệp “Rerum Novarum” (Octogesima adveniens) này của Đức Phaolô VI gởi cho đức hồng y Roy, chủ tịch Ủy Ban “Công Lý và Hòa Bình” và Hội đồng Giáo hoàng đặc trách về giáo dân, lặp lại cùng một nghĩa cử như các đức Giáo hoàng tiền nhiệm: đánh dấu cuộc kỷ niệm này trong một chuỗi liên tục và với tinh thần canh tân, qua một biểu lộ có ý nghĩa liên kết với những tiến bộ đương thời.

Tiến bộ xã hội

Vào năm 1971, hoàn cảnh kinh tế trên thế giới khá thuận lợi. Từ hai mươi lăm năm nay, những nước phát triển ghi nhận được một sự tăng triển liên tục và mức sống được nâng cao đáng kể. Hẳn là, các nước đang phát triển đang ở một mức chênh lệch khá lớn, đó là điều mà đức Phaolô VI muốn gây sự chú ý cấp thiết trong thông điệp về “Phát triển các dân tộc”. Những căng thẳng quốc tế dường như giảm bớt; cuộc chung sống hòa bình, có lẽ còn mong manh, vẫn chất chứa niềm hy vọng.

Quan tâm của đức Phaolô tập trung vào những vấn đề xã hội phải đảm lấy ngay từ bây giờ, nếu không “chúng sẽ trở nên quá trầm trọng đến nỗi không thể mong có được một giải pháp hòa bình” (9). Vậy đó là những vấn đề xã hội nào?

Đô thị hóa

Hiện tượng chính yếu này lan rộng nhanh chóng nhất là trong các nước đang phát triển với mọi hậu quả xã hội do làn sóng bỏ xứ miền quê: đánh mất đi những tập quán nông nghiệp, đổ dồn về những thành phố lớn với nạn bần cùng hóa lan tràn; đó là sự mất thăng bằng giữa văn minh nông thôn và văn minh đô thị. Lần đầu tiên, một văn kiện tòa thánh đề cập tới đề tài xã hội với một tầm mức rộng rãi. Vận dụng nó như thế nào? Nó có ý nghĩa ra sao?

Sự phát triển những phương tiện truyền thông xã hội

Một thay đổi lớn khác của thời đại chúng ta đã được khẳng định, đó là vai trò ngày càng lớn của truyền hình, truyền thanh và những phương tiện truyền thông đại chúng khác. Thông điệp và thông tin trở nên luôn sẵn có đến độ thừa thãi, làm thay đổi tâm trạng, kiến thức, văn hóa của con người. Chúng tạo nên những quyền lực mới quyền lực thứ tư càng mạnh mẽ hơn vì chúng làm cho đại đa số những ai tiếp nhận chúng trở nên thụ động. Phải thẩm định cả những điểm lợi lẫn điểm nguy (20).

Chất vấn các khoa học nhân văn (38,39,40)

Các khoa học lấy con người làm đối tượng nghiên cứu khẳng định tính độc lập đối với triết học, trong sự đa dạng và chuyên môn riêng của mỗi ngành. Chúng đòi hỏi một quy chế khoa học, dựa vào những phương pháp chặt chẽ, những kết quả khách quan và tham vọng lý giải mạch lạc phổ quát của chúng. Chúng cũng còn nhằm định hướng những hành động biến đổi con người và xã hội. Phải có thái độ nào đối với chúng đây? Từ khước hay ngờ vực? Hoặc đón nhận rồi phân định? Giáo hội vạch ra những giới hạn; nhưng “bên trong những giới hạn này, các khoa học nhân văn đảm trách được một nhiệm vụ tích cực mà Giáo hội sẵn sàng công nhận.”

Chất vấn các ý thức hệ

Những ý thức hệ xã hội, được xây dựng ở thế kỷ XIX, được áp đặt như một khuôn mẫu cho suy tư và hành động của thế kỷ XX. Người ta bắt đầu nhận thấy những lệch lạc của chúng so với những tiến bộ hiện thực; lệch lạc của chúng trong việc phân tích những hoàn cảnh đương thời và trong khả năng hành động nhằm thiết lập những hệ thống xã hội thích ứng, ngay cả khi chúng vẫn còn hấp dẫn nhiều tâm trí. Đây là thời điểm cần xem xét lại các ý thức hệ này và chất vấn mục tiêu tối hậu của chúng. Cần gỡ bỏ sự mập mờ của chúng, ngay cả đối với ý thức hệ về sự tiến bộ có mặt khắp nơi xuất hiện từ thế kỷ XIX (41). Vậy, sự phục hưng những chủ thuyết không tưởng, đang không ngừng lật đổ các chân trời triển vọng và ý thức hệ, có ý nghĩa gì? (37).

Chất vấn về con người

Trước những biến chuyển hiện nay, rất sâu sắc và rất nhanh chóng, bước đi đầu tiên là phải chú ý tới những nạn nhân mới của những chuyển biến này (người nhập cư, người trẻ, người già). Nhưng nhất là mỗi ngày con người tự khám phá thấy mình mới mẻ, và họ tự hỏi về ý nghĩa của chính bản thân mình và của sự tồn sinh của cả loài người (7). Con người hoang mang về ý nghĩa và về lịch sử.

Chính trong bối cảnh tiến bộ, rộ lên và mang nhiều vấn nạn hơn là sự chắc chắn, mà đức Phaolô VI gởi Tông thư này đến đức hồng y Roy.

Bối cảnh của Giáo hội

Hẳn là để đánh dấu cuộc kỷ niệm 80 năm; nhưng còn hơn thế nữa tông thư “Bát Thập Niên” tiếp nối công việc của Công đồng Vatican II. Qua Hiến Chế mục vụ “Giáo hội trong thế giới ngày nay”, Công đồng cách nào đó đã đảm nhận, xác định chính thức, và còn mở rộng giáo huấn xã hội của các đức Giáo hoàng tiền nhiệm; Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng” tạo nên một nền tảng khởi hành mới. Lại nữa, Đức Phaolô VI, khác với các văn kiện của Đức Piô XI (Kỷ niệm 40 năm) và của Đức Gioan XXIII (Kỷ niệm 70 năm), ở đầu bức tông thư, cho rằng không cần thiết phải làm một bản tóm lược diễn giải những lập trường có trước ngài; ngoài ra ý kiến đó cũng thấy nơi thông điệp “Phát triển các dân tộc” (1967), và nơi Đức Gioan-Phaolô II khi ngài nói về “lao động con người” (1981).

Tông thư “Bát Thập Niên” mang dấu vết của Công Đồng Vatican II không chỉ bằng việc tiếp tục triển khai các chủ đề  dù có nhiều chủ đề được đề cập tới một cách rất độc đáo – nhưng còn bởi hai khía cạnh khác. Một khía cạnh đặc thù: bức Thư gởi cho đức hồng y Roy là một “tông thư” trước hết gởi đến những cơ quan phát sinh từ Công đồng: Ủy Ban “Công Lý và Hòa Bình” và Hội đồng Giáo hoàng đặc trách về giáo dân, qua đó người ta muốn nói lên tầm quan trọng của chúng. Khía cạnh kia rộng lớn hơn nhiều và nảy sinh, không phải từ một quá trình chuyển tiếp, nhưng từ một cái nhìn của Giáo hội.

Giáo hội tụ tại Roma để họp Công Đồng Vatican II đã khám phá ra mình thật phong phú và hiệp nhất bởi cùng một đức tin vào Đức Kitô Phục Sinh và do cùng một Thánh Thần làm sinh động, nhưng đa dạng theo nhiều lục địa, chủng tộc, văn hóa; đa dạng còn bởi những môi trường nơi Giáo hội hiện hữu hôm nay. Hơn nữa, tính tập đoàn của các Giám mục chung quanh đức Giáo hoàng và hiệp thông với ngài đã là một khẳng định nổi bật của Hiến Chế tín lý về Giáo hội. Toàn bộ các vấn đề này được phản ánh trong lời giới thiệu của đức Phaolô VI, điểm mở đầu độc đáo. Một đàng, ngài khẳng định: “Trước những hoàn cảnh khá đa dạng, chúng ta khó có một lời công bố duy nhất, như đưa ra một giải đáp có giá trị phổ quát. Điều đó không phải là tham vọng cũng không phải là sứ mạng của chúng ta “(4); tuy nhiên, lời mở đầu ấy không ngăn ngài ngỏ lời với hết mọi kitô hữu, với đầy đủ ý nghĩa của trách nhiệm ngài trong lãnh vực này, như ngài đã từng làm năm 1967 về “Phát triển các dân tộc”. Đàng khác, và chính vì thế mà ngài chuyển giao cho các cộng đoàn kitô hữu, trong sự hiệp thông với các đức Giám mục hữu trách, trách nhiệm nắm bắt lấy những vấn đề xã hội, suy tư về chúng dưới ánh sáng Tin Mừng và tư tưởng của Giáo hội, tìm kiếm những giải đáp thích hợp mà không quên chiều kích phổ quát của Giáo hội. Đó cũng là một việc tiếp tục triển khai Hiến Chế về Giáo hội: Giáo hội, chính là Dân Thiên Chúa được tổ chức thành những cộng đoàn kitô hữu, có khả năng đề ra những sáng kiến, có khả năng hiện diện và hành động trong những môi trường và hoàn cảnh khác nhau. Đó là xúc tiến đường lối tản quyền trong thực hành với tinh thần phụ túc, mà vẫn duy trì tính hiệp nhất về nguyên tắc và cảm hứng. Tuy nhiên, khi xét thấy rằng những vấn đề quốc tế trở nên vượt trổi, quan điểm của đức Giáo hoàng vẫn rất cần thiết, bởi lẽ ngài nhận thức rõ hơn nhiều mặt khác nhau của nó.

Bối cảnh cuối cùng trực tiếp hơn: Tông thư của đức Phaolô VI đề ngày 14/5/1971, trong khi đó Thượng hội đồng Giám mục sẽ họp tại Roma vào tháng 10/1971 về chủ đề “Công bằng trên thế giới”. Đức Phaolô VI không muốn đi trước những nỗ lực làm việc này, cũng như không muốn cung cấp dữ kiện để thay cho các tài liệu chuẩn bị; ngài chỉ khích lệ chúng(6). Nhưng ngài vẫn giữ quyền tự do và sáng kiến phát biểu, bằng uy quyền riêng của mình. Hẳn là, do sự thận trọng hơn, ngài đã chọn hình thức của một Tông thư thay vì soạn thảo một thông điệp. Nhưng những nhà chú giải đã không lầm; dù cho hình thức có đặc thù và tương đối ngắn gọn, nó vẫn là một trong những văn kiện giáo hoàng quan trọng về vấn đề xã hội.

Khai sinh bản văn

Bức Tông thư trước hết phản ánh sự nhạy cảm của đức Phaolô liên quan tới những chuyến công du gần đây của ngài trên các lục địa khác nhau. Sự đổi mới trong việc đức Giáo hoàng di chuyển ngoài Roma đó sẽ được đức Gioan-Phaolô II lặp lại và mở rộng hơn. “Chúng tôi đã đến gần dân chúng và nghe những tiếng kêu than của họ, tiếng kêu trong khốn quẫn và đồng thời trong hy vọng” (2).

Tông thư có tham chiếu Công đồng Vatican II và những thông điệp mới đây: đó là điều rõ ràng. Nhưng cần ý thức đây là một thủ đắc dù cho việc áp dụng còn chậm trễ hơn cần phải tiếp tục theo đuổi. Một sắc thái mang tính cá nhân: đó là sự quan tâm đến tương lai: sự phân tích phải nối kết các yếu tố của tiến bộ dài hạn; cần phải dung nạp những thái độ thăm dò tương lai và chứng tỏ khả năng tưởng tượng sáng tạo. Chính Giáo hội cũng có bổn phận phải nhìn thấy trước những thay đổi hầu định hướng chúng tốt hơn. Tuy nhiên, Tông thư luôn yêu cầu dựa vào kinh nghiệm lịch sử của Giáo hội và sự thôi thúc của Tin Mừng, đó là hai nguồn mạch của sự canh tân.

Bản văn ít trích Kinh thánh  quả thật vì nó ngắn gọn cô đọng không mở rộng thành những triển khai lớn. Dầu vậy, cũng giống như cách thức của Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng”, nó có khá nhiều ghi chú về mặt linh đạo và thần học, nhưng cũng thận trọng, nhằm đưa ra một hướng đi hoàn toàn mới cho suy tư về xã hội; khẳng định vai trò của Chúa Thánh Thần và Mầu Nhiệm Phục Sinh, khi đề cập đến thuyết không tưởng, tự do, tiến bộ, dấn thân trong hành động…

Chắc chắn, đức Phaolô VI đã để ý đến những nghiên cứu khác đang tiến hành trong các trung tâm xã hội kitô giáo khác nhau có cả ở Pháp- liên quan đến tiến triển của các ý thức hệ, đến vị trí ngày càng lớn của chiều kích chính trị trong xã hội con người.

Tông thư có đặc biệt phản ánh những mối bận tâm của các xã hội công nghiệp tiên tiến không? Nếu đọc qua quá nhanh có thể tưởng rằng thế. Tuy nhiên, đức Phaolô VI trong lúc nêu lên những vấn đề mới: đô thị hóa, việc làm, di cư, định chế về người phụ nữ… đã nhấn mạnh rằng chúng liên hệ một cách khẩn thiết hơn đến các nước đang phát triển; trong những chuyến công du, ngài đã đích thân nghiệm thấy chúng.

Tính sư phạm của Tông thư thể hiện qua bốn thái độ ăn khớp nhau: ý thức đúng lúc những vấn đề mới để nhìn thấy trước các giải đáp; cố gắng làm chủ được những biến chuyển; tìm kiếm những giải pháp và thử nghiệm chúng bằng cách tỏ hiện tính sáng tạo; và đặc biệt là nhận định. Từ ngữ này đặc trưng cho phần đóng góp và thái độ của các kitô hữu. Những phán quyết của Tông thư khá tế nhị và cởi mở, vì chúng có xét đến tiến triển của những hoàn cảnh và tư tưởng. Trái ngược với những gì người ta đã nói hay viết, đức Phaolô VI không giới thiệu một “con đường thứ ba” giữa chủ thuyết tư bản tự do và chủ thuyết Mác-xít; ngài mời gọi các kitô hữu hãy phân định để biết phát triển như thế nào trong những hoàn cảnh và chế độ mà họ dấn thân.

Ngoài đức hồng y Roy, là người nhận chính, bức Tông thư “Bát Thập Niên” ngỏ lời với mọi kitô hữu. Đức Phaolô VI nói một cách minh nhiên điều đó: “Chính với hết mọi kitô hữu mà Chúng tôi, một lần nữa và một cách cấp bách, gởi đến một lời kêu gọi hãy hành động”(48). Lời kêu gọi đặc biệt, nhưng không giới hạn, gởi đến các tổ chức kitô giáo. Ngài nhấn mạnh đồng thời đến tương quan thiết yếu giữa Lời nhận lãnh từ Thiên Chúa và hành động phải thực hiện nhằm phục vụ anh em, và đến tính đặc thù bất khả thay thế của sự hiện diện của người kitô hữu trong thế giới, một sự hiện diện mà không tự tách mình khỏi một “tương lai mà từ nay đã trở thành của chung”.

Dàn bài và những điểm chính yếu

Dàn bài thì đơn giản. Giữa phần dẫn nhập (mở đầu và nhận định) và lời kêu gọi hành động (kết luận), là ba phần khác: những vấn đề xã hội mới (những điểm đáng chú ý trình bày cách cô đọng và cụ thể); những khát vọng căn bản và các trào lưu tư tưởng (nhận định về các ý thức hệ đang trên đà tiến triển); Những kitô hữu đứng trước những vấn đề mới (xác định về những điều kiện dấn thân).

Vì là một bức Thư, bản văn không mang một tựa đề nói lên cái cốt lõi nội dung. Có nhiều tựa đề khác nhau đã được đề nghị, không có tính cách chính thức, theo từng cách đọc. CERAS về phần mình đã lấy tựa đề “Trách nhiệm chính trị của người kitô hữu” nhằm bình luận thời cuộc. Quả thực đó là một điểm lớn và độc đáo; lãnh vực kinh tế và lãnh vực xã hội gắn liền với lãnh vực chính trị, là chiều kích bao quát của xã hội (24 và 25); chính trị là lãnh vực của các quyền lực, mà đó cũng là một cách thức dấn thân phục vụ con người. “Chính trị là một cách thế đòi hỏi  nhưng không phải là cách thế duy nhất- để kitô hữu sống dấn thân nhằm phục vụ tha nhân”(46).

Một điểm chính yếu khác: phân tích các trào lưu ý thức hệ khác nhau hiện nay và những chuyển biến lịch sử của chúng, với những phê phán vững chắc và tinh tế về các chủ nghĩa xã hội khác nhau, về thuyết Mác xít và về thuyết tư bản tự do trong những hình thức hiện tại. Sự dấn thân của các kitô hữu trong hoạt động phục vụ tha nhân làm phát sinh những xác quyết sau: Giá trị của tư tưởng xã hội của Giáo hội là tư tưởng có tính khởi hứng và giáo dục, là nguồn mạch của sự phân định và phán đoán; nhưng Giáo hội không đề nghị một mô hình được tiền chế (42), mà để cho có sự đa dạng trong lựa chọn: “Cùng một đức tin kitô có thể dẫn đến những dấn thân khác biệt”, mỗi người phải kiểm nghiệm lấy tính chân thực (50).

Tông thư OA đã có tầm ảnh hưởng và phổ biến vượt rất xa người nhận chính thức, là Đức Hồng Y Roy, và hai uỷ ban (công lý và hòa bình, Hội đồng về giáo dân) mà tông thư nhằm khích lệ sự làm việc. Do tính cách lớn lao và mới mẻ của những chủ đề hướng tới tương lai, do những quyền tự do được gợi lên nơi những cộng đoàn kitô hữu, tông thư này đã trở thành một điểm tựa cho rất nhiều trường hợp dấn thân; đồng thời nó cũng đã trở thành điểm tham khảo cho các văn kiện quốc gia.

Bài này đã được xem 1023 lần!

Pages ( 14 of 16 ): <1 ... 1213 14 1516>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]