Những quyền hành Ta đòi hỏi cho từng cá nhân, căn cứ vào luật thiên nhiên, thì ta phải chuyển lại cho những người kết hôn, thành một gia đình. Những nhân quyền nói trên thoạt khi đã hoá thành những gia quyền, thì tất nhiên thêm mạnh và đòi hỏi nhiều hơn. Gia đình há chẳng phải là người nam nữ hợp nhất sinh con mà thành “Một người” hoàn hảo hơn và hiệu lực hơn sao!
10.Di sản gia đình
Thiên nhiên buộc gia trưởng những bổn phận hồn xác là nuôi dưỡng và giáo dục con cái là phản ảnh của cha mẹ. Con cái kéo dài đời sống cha mẹ, nên thiên nhiên thúc đẩy cha mẹ phải lo liệu cho con cái một tương lai đủ sự cần; tạo lập một gia nghiệp đầy đủ cho họ đương đầu với mọi phúc họa có lẽ xảy ra.
Vậy gia trưởng chỉ có thể xây dựng sản nghiệp kia, do sự thu hoạch, làm chủ mọi sản phẩm hoặc thường xuyên, hoặc nhờ người xuất công tạo ra, để rồi di chuyển cho con cái bằng cách thừa kế. Theo lời Ta đã nói trên, gia đình không kém xã hội dân chính và là một xã hội thực sự, có quyền riêng, thường gọi là gia quyền. Bởi thế trong phạm vi rộng hẹp, tùy theo mục đích nó nhắm đến, gia đình nào cũng được hưởng quyền lợi riêng không kém quyền xã hội dân chính. Có thế, thì gia đình mới có thể lựa chọn và hưởng dụng được những sự cần thiết để bảo tồn và thi hành quyền tư chủ riêng của mình. Ta nói: không kém xã hội dân chính, ít nữa là phải bằng. Vì theo lý đương nhiên, gia đình có trước, quốc gia có sau. Còn trong thực tế quyền sở hữu của gia đình có trước, chính quyền xã hội quốc gia cũng có sau.
Do đó gia đình phải hưởng dụng quyền lợi thì mới làm trọn phận sự cần thiết. Giả như cá nhân và các gia đình tự nhiên có trước, phải nhập vào xã hội quốc gia có sau, thì tất nhiên họ phải được chính quyền ủng hộ và bảo vệ! nếu lẽ ra thay cho được ủng hộ gia đình bị ngăn trở; nếu lẽ ra thay cho được bảo vệ gia đình bị truất bớt, thì tất nhiên gia đình phải trốn xa chứ không tìm nhờ xã hội nữa.
11.Quyền bính dân sự phải bảo vệ xã hội gia đình
Như vậy chính quyền độc tài mưu trí đến tận cả gia đình, thì thật là lầm lỗi lớn và tai hại nhiều. Trái lại, hễ gia đình nào lâm vào cảnh tuyệt vọng, tự mình tìm giải thoát mà không được, thì phận sự chính quyền phải giơ tay giúp đỡ, vì đương nhiên gia đình là một phần tử của xã hội. Cũng một lẽ ấy, hễ có gia đình nào phạm đến quyền lợi gia đình khác, về những điều căn bản hệ trọng, thì chính phủ phải can thiệp để phục hồi quyền bất khả xâm phạm của mọi công dân. Làm vậy không phải là tiếm quyền của công dân mà chỉ là làm trọn phận sự che chở bênh vực quyền lợi gia đình cho hợp lý. Chính quyền cũng không nên can thiệp vào nội bộ của gia đình.
Thiên nhiên đặt giới hạn không chính phủ nào vượt qua được. Gia quyền không thể bãi bỏ đi được, cũng không thể nào bị quốc gia thu đoạt hết. Lý do là vì nguồn gốc gia quyền, chính là nguồn gốc đời sống con người. Con cái là thành phần sinh sống của cha mẹ. Chúng kéo dài đời sống của cha mẹ. Nói đúng ra, chúng không trực tiếp gia nhập và giao thiệp với xã hội dân chính đâu. Chúng trực tiếp sinh ra trong gia đình và là thành phần của gia đình, rồi nhờ đó gián tiếp họ mới gia nhập vào xã hội dân chính. Con cái tự nhiên là thành phần sống động của phụ thân, nên họ ở dưới quyền giám hộ của phụ mẫu; cho đến khi nào họ đứng tuổi dùng được quyền ý chí tự do của họ cho xứng vị con người. (TH. Toma 2a, 2ae X đoạn 12). Vì vậy, đem quyền bảo trợ của chính phủ, thế vào quyền bảo trợ của cha mẹ là làm tan vỡ những mối tương quan căn bản của gia đình.
“Kẻ xướng lên chủ nghĩa xã hội đã đi ngược lại với công lý tự nhiên.”
12.Hậu quả tai hại của sở hữu tập thể
Chủ nghĩa xã hội gây bao thiệt hại ngay trong xã hội dân chính. Chủ nghĩa xã hội bất công một cách hiển nhiên, không ai là không thấy rõ! Thuyết ấy còn gây nên biết bao thiệt hại. Trước thì gây hỗn loạn giữa các tầng lớp xã hội. Nó xiềng xích công dân vào vòng nô lệ nhục nhã ghê tởm, nên mới mở cửa cho công dân tha hồ giận ghét nhau, sinh lòng bất mãn và căm hờn.
Hơn nữa, những công dân dù tài năng lỗi lạc, cũng mất luôn sự kích thích làm việc. Họ không phấn khởi lên, thì sự sản xuất sẽ khô cạn ngay từ ở nguồn gốc.
Sau hết, chủ nghĩa xã hội muốn có sự bình đẳng giữa mọi công dân. Quả thật là một ảo tưởng, vì theo ý họ đề nghị, sự bình đẳng xã hội chỉ thực hiện ra trong sự thiếu thốn nghèo nàn và cùng quẫn.
Căn cứ vào những lý lẽ Ta mới chưng ra, chủ nghĩa xã hội, chủ trương quyền sở hữu đoàn thể, mà chối quyền tư hữu; phải bài xích triệt để vì kết quả nó khốc hại cho chính những người nó muốn cứu vớt. Nó lại trái ngược với mọi quyền lợi thiên nhiên của từng cá nhân. Nó làm sai lạc chức trách của quốc gia và phá rối an ninh công cộng. Thế nên, ai thành thực muốn xây hạnh phúc cho thế tục, phải căn cứ vào nền tảng tự nhiên của xã hội mà hết sức tôn trọng quyền tư hữu của từng người.
***
II. GIÁO HỘI CÓ QUYỀN ÐỀ CẬP ÐẾN ÐỀ TÀI VÀ GIÁO HỘI VỮNG TIN THỰC HIỆN ÐIỀU ÐÓ MỘT CÁCH CÓ HIỆU QUẢ
13.Cần phải nhờ đến tôn giáo và Giáo hội
Bây giờ ta hãy tìm cho ra phương dược chân chính ai cũng đang mong mỏi chờ đợi. Ta bàn đến vấn đề này với một lòng tin vững chắc vì giải quyết vấn đề ấy, là việc chính thức thuộc về linh quyền của Ta. Vấn đề xã hội hiện nay sôi nổi cực độ. Không tìm giải pháp ở tôn giáo và Giáo hội, thì không ai giải quyết được một cách hiệu nghiệm. Vậy không ai bằng Ta được Thiên Chúa uỷ trọng trách bảo tồn đạo thánh và phân phát cho nhân loại những ân huệ cao quý của Giáo hội. Nếu Ta cứ im tiếng trước vấn đề quan trọng này, thì Ta sẽ đáng bị thế giới kết án là Ta coi thường sứ vụ.
Lẽ cố nhiên một vấn đề trọng đại như thế, thì đòi sự hợp tác hành động và cố gắng của bao người khác nữa: tức là sự hợp tác chặt chẽ thân mật của các chính phủ, các chủ nhân, các nhà phú quý và các giới lao công nữa. Số phận của thế giới lao công sẽ may rủi phúc họa, tùy theo vấn đề xã hội được giải quyết như thế nào? Nhưng Ta quả quyết rằng: dầu nhưng người ấy hành động mạnh đến đâu đi nữa, chắc chắn họ cũng sẽ thất bại, nếu họ khinh thường quan niệm của Giáo hội.
Duy chỉ có Giáo hội tìm được trong phúc âm, những giải pháp hiệu nghiệm; hoặc để giải quyết vấn đề xã hội tương tranh, hoặc để cho vấn đề ấy bớt phần gay gắt cứng cỏi. Giáo hội không những tỏa sáng cho thế gian bằng những huấn từ rực rỡ, mà lại cố gắng cải thiện đời sống của mọi người theo lời Chúa giảng dạy. Giáo hội chỉ có mục đích là thiết lập những tổ chức đặc biệt bác ái để cải thiện số phận của mọi giai cấp cực khổ. Giáo hội hết sức khao khát và mong ước cho mọi giai cấp trong xã hội đều đồng tâm cộng lực tìm giải quyết vấn đề lao công một cách lương hảo chừng nào hay chừng nấy. Ðàng khác, Giáo hội quan niệm rằng: Pháp luật và chính quyền phải tùy theo chừng mực và sự khôn ngoan, mà góp một phần vào việc giải quyết vấn đề khắt khe này.
14.Chấp nhận những khác biệt và bất bình đẳng
Sự bất đồng xã hội và sự đau khổ là những hiện tượng không tránh được.
Ðó là nguyên tắc thứ nhất ta phải đề cập. Ai cũng phải thú nhận rằng: nhân tính chung của toàn thể nhân loại, dầu phát triển mãi cũng không sao làm cho mọi người trưởng thành ngang nhau. Trong xã hội dân chính, chủ nghĩa xã hội lại quyết san phẳng mọi người là lầm to.
Mọi cố gắng ngược với thiên nhiên thể nào cũng ra vô ích. Vậy chính thiên nhiên làm nảy nở ra trong con người những sự khác nhau mà lại sâu kín nữa; Tỉ dụ sự khác nhau về trí tuệ, tài năng, sự tinh xảo, sức khỏe và nghị lực, toàn là những sự khác nhau cần thiết; vốn phải gây nên những bất đồng xã hội. Hơn thế nữa, sự bất đồng ấy cũng hữu ích nhiều, hữu ích cho từng cá nhân, hữu ích cho cả đoàn thể.
Ðời sống xã hội đòi những tổ chức phức tạp và đặt ra những nhiệm vụ khác nhau nữa. Loài người tự nhiên buộc phải phân công chia việc với nhau, là vì người nào người ấy khác địa vị nhân sinh. Về phương diện cần lao, dầu loài người chưa mắc vào tội nguyên tổ cũng đã thấy mình phải làm việc, chứ không phải cứ ở không suốt đời đâu. Nhưng thời kỳ chưa mắc phải tội, loài người tình nguyện lao tâm lao động là một phận sự êm dịu nhẹ nhàng. Ðã phạm tội rồi, ai cũng nhận thấy cần lao là một án phạt, mà lại có kèm theo bao nhiêu sự đau khổ nữa. Kinh thánh nói: “Vì con mà đất bị nguyền rủa. Từ nay trở đi, con sẽ phải làm ăn vất vả khó nhọc hằng ngày cho đến mãn đời thì mới kiếm được từ ở trong đất đủ cơm bánh nuôi thân”.
Cũng vì vậy, đời sống con người bị bao tai ương tràn ngập giày xéo không ngừng mà lại không ai thoát được. Vì hậu quả bởi những tội lỗi gây ra, nên chua cay đắng xót đè nặng trên con người cho đến hơi thở cuối cùng.
Vậy đau khổ là “bạc phận” của nhân loại. Dầu giãy dụa cố gắng hoạt động ráo riết, dùng tài năng hay tài lực, tự nhiên con người cũng không thoát khổ bao giờ. Nếu có người tự đắc là cứu nhân loại khỏi sự đau khổ; nếu có ai hứa cho kẻ nghèo một đời sống không chút công lao nhọc nhằn, mà toàn sự an nhàn, thì người ấy chỉ lừa dối dân đen, đặt cạm bẫy cho họ mắc vào, và gây những tai họa kinh khủng hơn tình trạng khổ sở hiện tại. Ta nên ngẫm thế sự, y như thế sự hiện ra, mà tìm phương dược chữa nạn xã hội ở chỗ khác…
15.Hai giai cấp không phải là thù địch: Tư bản và lao động
Trong tình trạng xã hội hiện tại, điều lầm lỗi nguy hiểm nhất là tưởng rằng: hai giai cấp xã hội trí thức và lao động bẩm sinh thù ghét nhau. Vì thiên nhiên đã cấp sẵn võ khí cho kẻ giàu sang, người bần cùng; tự nhiên chiến đấu với nhau trong một trận kịch liệt không ngừng. Tưởng như vậy là phi lý và sai lầm. Sự thật ở một chủ nghĩa hoàn toàn đối lập. Thân thể ta chẳng hạn, thì gồm đủ bộ phận khác nhau, nhưng luôn luôn hoà hợp với nhau đến nỗi kết thành một con người cân xứng hẳn hoi. Xã hội cũng vậy. Thiên nhiên định có hai giai cấp khác nhau, nhưng bẩm sinh phải hoà hợp với nhau trong một thế quân bình hoàn hảo. Giai cấp nào cần cho giai cấp ấy. Không thể nào có tư bản nếu không có cần lao, cũng không thể nào có cần lao nếu không có tư bản. Bên nào bên ấy hoà hợp với nhau, xã hội mới có trật tự và mỹ lệ. Trái lại cứ xung đột nhau mãi thì xã hội hỗn độn và tranh đấu dã man…
Vậy để hoà giải hai giai cấp xã hội tương tranh kia; để diệt trừ tật nạn ấy từ cội rễ, thì những cơ cấu kitô hữu, không thiếu gì phương dược linh nghiệm diệu kỳ.
16.Bổn phận công bằng của công nhân và của chủ nhân.
Trước hết học thuyết xã hội với cả những hệ thống tín điều hợp lệ nhất mà Giáo hội phải duy trì và giải thích, thì rất hiệu lực để làm cho kẻ giàu sang người bần cùng thuận hoà với nhau. Hiệu lực vì thức tỉnh hai giai cấp xã hội nói trên với những bổn phận họ phải đảm nhận đối với nhau.
Trổi vượt mọi nghĩa vụ khác, là những nghĩa vụ bởi đức công bằng mà ra.
Trong những nghĩa vụ ấy, phải đề cập rõ những nghĩa vụ của hạng người bần cùng và lao động. Tóm lại, họ phải hoàn tất đầy đủ và thành thực những công việc họ đã đảm nhận, lúc ký giao kèo họ tự do, nhưng họ cũng phải theo công lý. Thợ thuyền không được gây thiệt hại cho tài sản hay bản thân chủ nhân. Hễ khi nào thợ thuyền đòi hỏi chủ nhân điều gì, thì họ không được dùng võ lực hay phản loạn. Thợ thuyền lại phải đủ sáng suốt mà bài bác những người hư đốn, thường thuyết những điều dối trá, khiến họ nuôi dưỡng những kỳ vọng quá đáng và tin theo những lời hứa hão huyền thường hay kết liễu bằng những hối tiếc phũ phàng và tan gia bại sản.
Còn kẻ giàu sang và nghiệp chủ không được coi thợ thuyền như thể là kẻ nô lệ. Họ phải kính trọng nhân phẩm tự nhiên, và nhất là nhân phẩm kitô hữu của họ.
Thủ công xét theo lý đương nhiên và giáo lý đạo Chúa Kitô không phải là sự nhục đâu. Trái lại, thủ công là một vinh dự vì là sinh kế cần thiết cho người nuôi dưỡng và phát triển mạng sống của mình. Ðiều nhục nhã phạm nhân đạo là coi thợ thuyền như thể họ chỉ là dụng cụ thu lợi, vì chỉ đánh giá họ tùy theo năng lực bắp thịt chân tay.
Ðạo thánh Chúa lại buộc chủ nhân tôn trọng quyền lợi thiêng liêng và chức phẩm phần hồn của công nhân nữa. Chủ nhân phải làm thế nào để công nhân đủ thời giờ làm trọn phận sự tôn giáo, để công nhân khỏi bị dỗ dành và sa vào trụy lạc, để cho công nhân khỏi mất tinh thần gia tộc và những tập quán sống tiết kiệm. Chủ nhân cũng bị cũng bị cấm ngặt không được bắt công nhân làm những việc quá sức, không hợp với tuổi tác và chủng tính nam nữ của từng người.
17.Lương bổng cân xứng
Nhưng phận sự chính của các chủ nhân là trả công từng người cho cân xứng. Thế nào là trả công cho cân xứng? Vấn đề ấy phải giải quyết về mọi phương diện khác nhau, nhưng cũng cần thiết. Nói rộng ra, chủ nhân và tài gia phải nhớ rằng: “Lợi dụng tình trạng nghèo khó túng cực hay đầu cơ bần khổ của công nhân, là phạm đến giáo luật và pháp luật”, nên là một việc đáng kết án. Cướp công mồ hôi của công nhân là tội ác thấu trời. “Kìa hãy xem, chính tiền lương mà các bạn đã bóc lột của những thợ gặt lúa trong đồng ruộng các bạn, đã kêu lên, và những tiếng ca thán của thợ gặt đã thấu đến tai Chúa vạn quân” (Gac 5,4).
Sau hết, kẻ giàu sang phải thận trọng kiêng dè mọi bạo động, mọi mưu gian, mọi thủ đoạn ăn lời quá độ. Những việc ấy đều đang kết án, vì phạm đến kẻ nghèo đã hết sức sống tiết kiệm. Kẻ nghèo ở trong tình trạng ấy lại không tài nào tự vệ được. Lý do dễ hiểu là tiền vốn của người càng ít ỏi thì càng quý trọng.
Vậy Ta xin hỏi rằng: phục những điều luật ấy há chẳng phải là đủ mà chấm dứt cuộc xung đột giữa công nhân và chủ nhân ư! Thưa đủ, không những để chấm dứt mà lại để diệt trừ nguyên nhân của nó nữa.
18.Tình thân ái giữa mọi người
Được Chúa Kitô dạy dỗ và hướng dẫn, Giáo hội lại nhắm vào mục đích cao siêu hơn nữa. Giáo hội đề cập đến một hệ thống huấn giới hoàn bị hơn, vì tận tình trông mong thắt chặt hai giai cấp xã hội bằng những giây thân ái siêu việt khiến đôi bên thân nghĩa với nhau.
Không ai hiểu đời sống thế tục và định giá của nó cho phải chăng, nếu kẻ ấy không ngẫm đến cuộc đời hằng sống của con người. Ðã bài trừ sự sống đời đời của con người, không còn ai nghĩ ra được một quan niệm xác đáng về phúc lợi đời sống tạm gửi hiện tại. Hơn thế nữa, cả vũ trụ nên như một bài toán không ai giải đáp được. Chúng ta lìa bỏ đời sống tạm gửi này thì mới bắt đầu sống thật sự. Ðó là một chân lý thiên nhiên, nên đạo Chúa Kitô mới tôn lên làm một tín điều vững chắc. Tất cả đạo thánh Chúa xây cất chân lý tôn giáo, trên nền tảng bất di bất dịch ấy.
Quả thật, chúng ta được Chúa dựng nên không phải là để hưởng phúc lợi phù vân chóng qua của đời này, mà là để hưởng phúc lợi hằng hữu trên trời. Chúng ta được Thiên Chúa ban toàn quyền đến thế gian, không phải vì là quê chính vĩnh cửu của ta đâu, một vì là quê tạm, là chốn đọa đày ta phải tạm ở.
Bất cứ anh em tiền của dư hay thiếu, điều đó cũng không quan hệ gì đến phúc lợi trường sinh mà ai cũng mong đến. Ðiều quan trọng là anh em hưởng dụng tiền của như thế nào? Dầu công việc của Chúa Cứu thế đã hoàn tất rồi, những sự khổ phiền vẫn còn pha lẫn với những thú vui đời sống hiện tại. Theo ý Chúa Kitô, những sự khổ phiền ấy, khích lệ kitô hữu sống thánh thiện, lập công, đến nỗi không người nào hy vọng đến phúc lợi trường sinh được; nếu người ấy không vui lòng bước theo những bước chân đẫm máu của Chúa Giêsu Kitô. Ta khổ thân với Người thì mới hiển trị với Người. Ngoài ra ta càng vui lòng chọn lấy thánh giá và mọi hình khổ đời sống gây nên, thì ta càng thấy mọi nỗi thống khổ bớt phần cay nghiệt. Hơn thế nữa, để giúp ta cam chịu khổ ở đời, không những Người nêu gương cho ta bắt chước, mà Người lại ban thêm những ơn Thánh Sủng nữa và hứa thưởng công từng người trên cõi trường sinh. Khoảng khắc ngắn ngủi nhẹ nhàng ta chịu đau khổ ở dưới thế, đối với giải thưởng vĩnh phúc trường sinh, thật chẳng thấm vào đâu”.
Vì thế kẻ phú quý đời này phải biết trước rằng: “Dầu tiền của nhiều, họ cũng không tránh được sự đau khổ, mà cũng không thêm phần ích lợi gì, để mua chuộc phúc lợi đời sau. Nói đúng hơn tiền của đối với đời sau chỉ là một trở ngại. Họ nên run sợ trước những lời Chúa Giêsu đặc biệt đe dọa kẻ giàu trong phúc âm. Ngày Chúa tái hiện phán xét mọi người thì họ phải rành mạch tính sổ với Người, về cách đã dùng tiền của, họ được hưởng dư.
Bài này đã được xem 1011 lần!