CÁC THÔNG ĐIỆP XÃ HỘI

19.Của cải phải được sử dụng chung: Bổn phận bác ái

Kèm theo đây là những nguyên tắc dùng tiền của, do triết lý phác qua. Những nguyên tắc ấy chỉ có Giáo hội toàn quyền giải nghĩa minh bạch và đưa từ phạm vi “lý thuyết” sang phạm vi “thực hành”. Ðiều căn bản ai cũng phải nhớ, là phân biệt quyền sở hữu bất khả xâm phạm và thể cách dùng tiền của cho phải lẽ.

Quyền tư hữu – (Ta nhấn mạnh điều ấy trong đoạn trên) là quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của con người. Dùng quyền ấy đối với con người sống trong một xã hội không những là một việc hợp pháp mà lại là một sự tối cần nữa. Quyền tư hữu dành của riêng là quyền hợp pháp và hưởng dụng quyền ấy trong đời sống là một sự cần thiết nữa. Nhưng hỏi rằng: Phải dùng tiền của như thế nào cho phải lẽ? Thì Giáo hội không ngần ngại quả quyết rằng: Trong phạm vi ấy con người phải nhận thực chân lý này: không ai nhận được các ngoại vật trong thiên nhiên là của mình. Các ngoại vật ấy đều là của chung, nên dầu mình có bao nhiêu, nếu mình thấy ai là kẻ túng thiếu thì mình phải tình nguyện phân chia với họ tùy theo sự túng thiếu của họ.

Bởi thế, Thánh Phaolô có câu: “Divitibus hujus saeculi praecipe, facile tribuere, communicare: Hãy bảo kẻ giàu có ở thế gian này phải phân chia của cải cho rộng tay” (Thomas 2a 2ae 2.66 đoạn 2). Ðã hẳn không ai buộc lấy của cải cần thiết cho mình, hay cho gia đình đủ sống, mà cứu độ anh em đồng loại. Cũng không ai bắt buộc giảm bớt những của cải tiện nghi và thích đáng với địa vị nhân sinh của mình. “Thật ra không ai bắt ai phải ăn ở trái ngược với những tiện nghi của xã hội” (Thomas 2a 2ae Q.32 anh 6).

Nhưng đã liệu cho mình đủ sự cần và tiện nghi, nếu còn phần dư, ai cũng bắt buộc dành để thí cho kẻ khó. “Phần của dư là phần bố thí”. (Lc 11,41).

Ðó là bổn phận bắt buộc ai cũng phải thi hành, trong những trường hợp tối cần, là bổn phận do lẽ công bằng bắt buộc. Nhưng thường ngày chỉ là do bổn phận bác ái, nên không có luật pháp nào buộc giữ trọn phận sự ấy.

Tự nhiên luật pháp và xử đoán của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, trổi vượt luật pháp và xử đoán của thế gian. Vậy Chúa Giêsu đã dùng trăm phương ngàn cách để thúc đẩy ta làm việc phúc đức từ thiện. Người rằng: “Cho thì có phúc hơn là nhận” . Cũng theo Chúa Kitô: thí hay trối của cho kẻ khó, thì sẽ được coi là thí hay trối của cho Chúa. Hễ khi nào anh em bố thí của cho kẻ hèn kém nhất trong anh em, ắt là chúng con thí cho Ta vậy. Tín điều ấy tóm tắt lại trong vài câu rằng:

  • Chúa khoan hồng ban dư dật mọi ơn huệ hồn xác cho ai, thì kẻ ấy phải dùng để thánh hoá bản thân và cấp đủ sự cần cho đời sống mình trước, rồi sau phải đóng vai quản lý Chúa quan phòng, để cứu đỡ kẻ khác.
    • bởi thế kẻ nào có tài hùng biện thì phải nói cấm không được im tiếng.
    • Kẻ giàu có nhiều tiền thì chớ để sự nhân từ tê cóng trong lòng họ.
    • kẻ có thiên tài quản trị thì phải cẩn thận phân chia quyền hành chánh và mọi ân huệ do quyền ấy nảy ra cho cả đồng bào.

20.Bần cùng không phải là một điều ô nhục

Còn những người bần cùng thì nên học với Giáo hội rằng: theo sự phán đoán của chính Thiên Chúa, sự bần cùng không phải là một sự ô nhục. Ðổ mồ hôi mà kiếm ăn cũng không phải là hổ ngươi đâu. Chính Chúa Kitô đã nêu gương cho anh em bắt chước. Dầu đã giàu có vô cùng, Người cũng tự ý làm người bần cùng để cứu nhân loại. Dầu Người là Con Thiên Chúa, cùng một thiên tính với Thiên Chúa, Người cũng hân hạnh khi được thiên hạ đón nhận là con của một người thợ mộc. Hơn thế nữa, phần lớn cuộc đời của Người đã huỷ phí trong những việc làm công. Dân chúng thắc mắc rằng: há chẳng phải Ông là con Maria đó ư!

Những kẻ nào hằng nhìn ngắm mẫu gương Con Chúa nhập thể, thì mới dễ dàng am hiểu những bài học kèm theo đây. Nhân phẩm chân chính, giá trị tuyệt đối của con người, thì hoàn toàn ở một đời sống nết na đức hạnh. Ðức hạnh là cơ nghiệp chung của mọi người phàm; đức hạnh lại vừa sức mọi người bất phân kẻ sang người hèn, người giàu kẻ khó. Bất cứ người nào có đức hạnh và công nghiệp thì người ấy mới đáng hưởng phúc trường sinh. Chúa Kitô thường gọi kẻ nghèo là kẻ có phúc; Người tha thiết kêu mời mọi người đau khổ khóc lóc, hãy đến cùng Người thì sẽ được Người an ủi.

Người lại ôm ấp kẻ phàm hèn hay bị áp bức một cách âu yếm hơn. Những tín điều ấy hẳn làm hạ tính kiêu hãnh của hạng phú gia và dạy cho họ tỏ lòng khoan dung đối với kẻ bạc phận, vừa nâng đỡ họ lúc thiếu can đảm không còn chịu đựng khổ cực của họ; vừa giúp họ hứng tâm lên lúc họ ngã lòng. Những tín điều ấy lại thâu ngắn sự xa cách đã do tính kiêu ngạo gây nên giữa kẻ sang người nghèo. Nếu loài người đem ra thực hành trong xã hội, thì Ta sẽ khỏi phải mất công mà khiến bên nào bên ấy tình nguyện bắt tay nhau và hợp ý hợp lòng trong một tình nghĩa duy nhất và hiệu nghiệm.

21.Hơn cả tình nghĩa bạn bè là tình huynh đệ

Ðoàn kết trong tình nghĩa bạn bè thật chưa đủ. Giá người ta tuân theo luật Phúc âm thì họ sẽ đoàn kết với nhau trong tình kitô hữu huynh đệ. Ðôi bên sẽ thông cảm, loài người ai nấy cũng bởi Thiên Chúa dựng sinh. Nên Thiên Chúa vừa là Cha chung, vừa là cứu cánh chung, và là cứu cánh duy nhất của nhân loại. Vì chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể thông cho loài người một chân phúc tuyệt đối hoàn hảo. Chúa Giêsu lại cứu chuộc và phục chức làm con Chúa cho mọi người được hoàn toàn như nhau. Nên có một tình nghĩa huynh đệ buộc họ lại với nhau, và với Chúa Giêsu là Chúa họ, và là anh trưởng đông em: Primogenitus in multis fratibus. Họ cũng sẽ được biết, mọi của cải thế tục, mọi kho tàng thánh sủng đều là của toàn thể nhân loại. Chỉ những kẻ bất xứng là không thừa hưởng những của quý trên trời. Nếu anh em là con Chúa, thì anh em cũng là kẻ thừa kế; thừa kế của Thiên Chúa, đồng kế thừa của Chúa Giêsu Kitô.

Ðó là tóm tắt lại những quyền hành và những nghĩa vụ của nhân loại, hiểu theo học thuyết công giáo. Giá như toàn thể nhân loại nghe theo và thi hành những bài học quí hoá ấy, ắt phúc âm sẽ được ưu thắng trong xã hội. Thiên hạ sẽ hoàn hảo trong một thời gian rất ngắn, cho mọi người hiển nhiên thông hưởng.

22.Những cơ chế công giáo canh tân các xã hội

Tuy nhiên Giáo hội chỉ bảo phương dược, nhưng Giáo hội cũng ra tay chữa bệnh nữa. Giáo hội tận tâm với sứ mệnh giáo huấn nhân loại theo các nguyên tắc giáo lý của mình. Ðó là nguồn mạch chảy nước sống, mà Giáo hội tìm phân phát cho loài người.  Nhờ những hành động của các Giám mục hợp tác với các linh mục, Giáo hội phổ biến khắp nơi những ơn ích, bởi nguyên tắc và học thuyết nói trên tự nhiên phát sinh ra.  Rồi Giáo hội cố sức len lỏi vào các tâm hồn; cố sức thu phục ý chí từng người hầu cho ai nấy cũng tòng phục và nương theo đạo thánh Chúa.

Về điểm chính tối quan trọng này là điểm thâu tóm lại mọi quyền lợi bị xã hội hiện tại vi phạm, thì Giáo hội hành động, nói được là độc quyền.  Các lợi khí Giáo hội thường dùng để cảm hoá tâm hồn người ta, thì đều do Chúa Giêsu phú ban và cũng toàn là lợi khí tuyệt đối thần hiệu. Chỉ những lợi khí ấy mới thấu nhập tận các ngách thầm kín của lòng người.  Chỉ những lợi khí ấy mới có thể khiến lòng người tuân theo mệnh lệnh của nghĩa vụ, chế ngự các dục vọng, bằng những mối tình nồng nàn tha thiết đủ sức hùng dũng đạp phẳng được mọi trở lực ngăn cản bước tiến trên con đường đức hạnh.  Duyệt qua các gương mẫu Giáo hội để lại khi xưa, thì ta sẽ rõ. Những hiện tượng lịch sử, chúng ta lược thảo lại đây, toàn là những hiện tượng không ai chối cãi được.

Quả thực mọi cơ cấu xã hội dân chính đời xưa, đã được đạo thánh Chúa, tường tận hoán cải.  Nhờ Giáo hội cải tạo, trình độ văn minh của nhân loại đã được nâng cao, nói được là một việc cải tử hoàn sinh, hiệu lực đến nỗi xã hội vươn mình lên một mức sống trọn lành, trải qua lịch sử trước sau chưa bao giờ thấy.

Sau hết chính Chúa Giêsu là nguồn gốc mọi ơn thánh sủng, nên Người cũng là cùng đích. Mọi sự đều bởi Người mà ra, thì mọi sự cũng phải quy về Người.  Thật vậy phúc âm phổ biến khắp thiên hạ rồi; các dân thiên hạ được nghe tin Ngôi Hai nhập thể, thì cả thiên hạ mới được cứu rỗi.  Thân thế của Chúa Giêsu là Con Chúa vừa là con người, đã ảnh hưởng đến khắp xã hội. Xã hội lại được đức tin, giáo lý và luật pháp của Chúa Giêsu thấm nhuận hết.  Bởi vậy, xã hội ngày nay có thể chữa lành được, nhưng chỉ bằng một phương dược là trở về với đời sống và các cơ cấu đạo Chúa Kitô.

Ai quyết phục hưng lại một đoàn thể đang suy đồi, thì các kẻ ấy phải nhắc lại cho những đoàn viên nhớ buổi đầu đoàn thể ấy được khai sanh để làm gì? bất cứ đoàn thể nào còn hoàn thiện, ắt là vì đoàn thể ấy đã trung thành theo đuổi và đạt tới mục đích mà kẻ lập đoàn đã nhắm tới, nên mọi hành động và mọi cử chỉ của các đoàn viên đều quy về mục đích đã gây dựng đoàn thể họ. Lạc xa mục đích ấy thì cả đoàn thể sẽ tan rã và đi đến chỗ chết. Trái lại, phục hưng lại mục đích ấy thì cả đoản thể sẽ lại kết hợp và sống lại.

Áp dụng những nguyên tắc tâm lý trên vào xã hội dân chính, thì tất phải thích dụng riêng cho giai cấp công dân còn phải sống nhờ cần lao và cũng là đa số.

23.Giáo hội mời gọi sống nhân đức

Xin đừng lầm tưởng Giáo hội đã quá bề bộn với phận sự săn sóc các linh hồn, nên chỉ lơ đễnh đời sống vật chất tạm gửi này. Riêng về giai cấp lao động, Giáo hội rất ân cần tìm cách cứu thoát họ khỏi sự bần cùng cơ cực và gây dựng cho họ một đời sống khả quan hơn. Mọi cố gắng của Giáo hội hiện nay đều quy về mục đích ấy.

Quả thực Giáo hội góp một phần hiệu lực vào công việc đó. Trước là vì những lời nói và việc làm của Giáo hội đã hấp dẫn mọi người trở về với luân thường đạo hạnh. Khi mà phong hoá mỹ tục công giáo được tôn trọng thì tự nhiên có một phần ảnh hưởng rất hiệu lực đến nền thịnh vượng vật chất của nhân loại. Một đời sống nết na đức hạnh, thì hằng kéo ơn Chúa xuống, là nguyên nhân và nguồn mạch của mọi phúc lợi: Nhân loại cũng nhờ đó mà thắng hãm lòng tham của, ham lợi, toàn là những tệ đoan xã hội tự nhiên gây chán ngán và cay đắng ngay giữa sự phong phú. Vì tuân theo phong hoá đạo thánh thì ai cũng tìm sống đơn sơ, dùng lương thực đạm bạc và tiết kiệm để bù vào sở đắc ít ỏi! Như thế người ta mới lánh xa những thói xấu tự nhiên, tiêu phá những tài sản lớn nhỏ và làm tan nát những gia nghiệp phong phú.

24.Giáo hội nâng đỡ giai cấp thua thiệt qua những tổ chức từ thiện

Sau nữa Giáo hội trực tiếp gây hạnh phúc cho những giai cấp xấu số, thiết lập và viện trợ những tổ chức từ thiện để cứu vớt họ khỏi cảnh khốn cùng. Trong những cố gắng cứu dân độ thế này, Giáo hội đã nổi tiếng đến nỗi thù địch cũng phải cảm phục ngợi khen.

Kìa xem các giáo đoàn tiên khởi, có lòng tương ái nồng nàn tha thiết đến nỗi bao người triệu phú đã hy sinh cả gia sản để cứu trợ kẻ bần cùng. Bởi thế giữa thời kỳ đó không ai là kẻ bần khổ giữa các giáo đoàn Kitô hữu. Các tông đồ uỷ việc thí của hàng ngày cho các thầy phó tế, là một giáo chức được lập ra để chuyên lo việc ấy. Chính Thánh Phaolô, dù bận trí vướng lòng vào việc săn sóc các giáo đoàn tiên khởi, thì người cũng không ngần ngại vượt biển trèo núi để thân hành cứu trợ các kitô hữu thanh bần. Hễ lần nào các kitô hữu hội họp thì họ cũng tình nguyện dâng cúng phần cứu trợ như thế. Phần của cứu trợ này được Tertullien thường gọi là “của lưu trữ đạo đức” vì đã quen dùng để nuôi dưỡng hay chôn cất những người cơ bần, những người nam nữ mồ côi nghèo túng, tôi tớ già cả, nạn nhân chìm tầu.

Cái gia sản mà Giáo hội kính cẩn dành riêng cho đại gia đình kẻ bần cùng, từ từ được lập ra như thế, Giáo hội còn lo xa hơn nữa mà liệu trăm cách cứu trợ kẻ nghèo, nhưng không bắt họ phải mang tiếng nhục nhã là kẻ chìa tay ăn xin. Mẹ chung của hai hạng người phú bần ấy, đã khôn khéo lợi dụng những lòng hăng hái yêu thương mà chính người đã tạo dựng khắp nơi, để lập ra các tu viện, các hội đoàn công giáo từ thiện và vô số cơ quan hữu ích khác, để hầu hết những kẻ khốn cùng được cứu trợ và giúp đỡ.

Ðã đành thời kỳ này cũng như thời kỳ xưa không thiếu người theo gót tha nhân mà lấy lòng bác ái kỳ diệu ấy làm một khí giới chống trả Giáo hội. Các chính phủ ngày nay cũng ra luật lập việc cứu trợ cho các dân đen, rồi tự đắc họ thay thế được mọi công cuộc bái ái của Giáo hội. Nhưng lòng bác ái đạo Chúa Kitô gây dựng, thì hy sinh vị tha, hầu cho anh em đồng loại được nhờ, thật không một tổ chức nào của thế tục thay thế được.

Chỉ có Giáo hội mới nảy ra lòng bác ái cao siêu ấy vì nó từ ở trong Thánh Tâm từ bi khoan hậu của Chúa Kitô phát ra, nếu lạc xa Chúa Kitô ắt là lạc xa Giáo hội của Người vậy.

***

III. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC

25.Hành động chung của tất cả mọi người

Tuy nhiên muốn cho công cuộc kết quả theo ý sở nguyện, Giáo hội cần phải nhờ những tổ chức trần thế nữa. Tất cả mọi người bận trí về vấn đề phú bần và thành thực tìm giải pháp, đều nhằm chung một mục đích, và cộng tác với nhau chặt chẽ, mỗi người trong phạm vi riêng của mình. Công cuộc này như in ảnh Chúa quan phòng quản trị thế giới.

Chúng ta đã nghiệm rằng: sự thường những công việc và những biến cố tùy thuộc nhiều nguyên cớ khác nhau, cũng là kết quả bởi những nguyên cớ do hành động phối hợp với nhau.

Vậy, để giải quyết vấn đề phú bần này, ta có thể đòi hỏi những gì ở các chính phủ quốc gia? Khi nói về chính phủ quốc gia là không có ý chỉ riêng những chính phủ hợp pháp, được thiết lập do dân nọ nước kia mà thôi. Ta có ý chỉ bất cứ chính phủ nào xứng với quy điều của thiên nhiên giáo lý của Chúa và cả những huấn từ Ta đã tuyên bố, đặc biệt trong bức thông điệp “hiến pháp kitô hữu của xã hội quốc gia”.

26.Phục vụ công ích

Quốc trưởng nào cũng phải nhờ luật pháp và chế độ quốc gia, để góp phần chung vào việc giải quyết các vấn đề, nghĩa là họ phải hành động thế nào cho hiếp pháp và tổ chức hành chánh gây nên sự thịnh vượng toàn quốc và riêng cho từng công dân. Vì đó là vai chính của mọi chính khách khôn ngoan và phận sự riêng của các nhà cầm quyền.

Vậy quốc gia thịnh vượng bởi những gì?

Thưa bởi thuần phong mỹ tục: những gia đình căn cứ vào nền trật tự và luân lý, một đời sống tôn giáo thành thực, một lòng tôn trọng đức công bằng, một tổ chức thâu thuế phải lẽ, phân chia công vụ vô tư lợi, một tổ chức công thương tân tiến, canh nông thịnh lợi, và các ngành tương đương cần phải mở mang để tăng thêm tiện nghi phúc lợi cho toàn dân.

Quả thực đó là những phương tiện chính phủ dùng để mưu ích cho đủ mọi giai cấp xã hội nói chung và cho giai cấp lao động bớt phần cực khổ nói riêng. Chính phủ toàn quyền đến việc đó, không phải sợ ai chỉ trích vì đã can thiệp vào việc kẻ khác. Chính vì nhiệm vụ chính quyền phải phục sự công ích.

Dĩ nhiên những lợi ích chung do chính quyền lưu tâm và gây nên, càng tăng lên thì người ta càng ít cần đến những phương tiện khác mà sửa chữa số phận của phái lao động.

27.Tư cách công dân chung và tổ chức tư pháp phân phối

Nhưng đây còn một nhận xét chú trọng đến vấn đề ta đang thảo luận! xã hội tồn tại vì một lý do duy nhất và liên hệ tới tất cả mọi công dân lớn nhỏ phú bần. Theo luật tự nhiên, bần dân cũng như phú gia đều là công dân bình quyền như nhau: nghĩa là bần dân cũng là phần tử hiện thực và sống động kết thành những gia đình, và nhờ đó kết thành toàn thể quốc gia. Nói cho đúng, ở bất cứ quốc gia nào bần nhân kể như là đa số. Lo một hạng công dân mà lãng quên mọi hạng khác, thì tất là phi lý. Chính vì lý do đó mà chính quyền nhất định phải dùng những biện pháp thích hợp để bảo vệ mạng sống và quyền lợi của phái lao động. Lỗi phận sự ấy là lỗi công bằng tuyệt đối vốn buộc rằng của ai phải trả cho kẻ ấy. Về điểm ấy Thánh Thomas có câu đầy ý nghĩa: phần tử và toàn thể nói được là một. Thành ra cái gì là của toàn thể cũng nói được là của từng phần tử vậy (2a 2ae 61 đoạn 1,2).

Bởi thế, trong những nghĩa vụ hệ trọng và phức tạp, chính quyền phải đảm nhận để gây công ích cho đúng phép, nghĩa vụ trọng nhất là săn sóc công dân đủ mọi giai cấp, theo những luật lệ ráo riết của công bình xã hội thường gọi là “phân công” thưởng phạt hợp lý.

Tất cả mọi công dân không trừ người nào, đều phải góp phần vào của chung. Đàng khác, của chung tất nhiên lại phải hưởng dụng để mọi công dân chia phần lợi. Tuy nhiên, phần góp của từng cá nhân không thể như nhau và cũng không thể bằng nhau được. Bất cứ chế độ và chính thể xã hội phải thay đổi thể nào, thì công dân không bao giờ ở cùng một địa vị ngang nhau được. Công dân khác địa vị và giai cấp là lẽ sống còn của xã hội, thiếu điều đó không ai nghĩ ra một quan niệm xác đáng về xã hội được nữa. Dầu thế nào mặc lòng, trong xã hội phải có những người quản trị lập pháp, xử đoán, rồi giải quyết vấn đề bình loạn; hoặc theo lời cố vấn, hoặc theo lối tự quyết hạ lệnh. Dĩ nhiên những người ấy chiếm được một địa vị cao hơn, và giữ ngôi độc tôn, vì họ phụ trách công ích một cách trực tiếp. Trái lại công dân, góp phần vào công ích, tùy theo nghề nghiệp, chẳng còn phương tiện nào hiệu lực cho bằng.

Bài này đã được xem 1021 lần!

Pages ( 4 of 16 ): <123 4 56 ... 16>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]