CÁC THÔNG ĐIỆP XÃ HỘI

Vậy, đối với những công nhân ấy, những nghiệp đoàn Công giáo sẽ là một phương tiện hữu ích bất ngờ. Thấy họ ngần ngại thì các nghiệp đoàn ấy cần niềm nở đón tiếp họ và thành thực bênh vực che chở họ.

***

V. LỜI KHÍCH LỆ CUỐI CÙNG

45.Để tái lập những phong tục Kitô giáo

Vậy chắc anh em đã được thấy rõ vấn đề khắt khe này cần phải bàn tán và giải quyết thế nào. Mong người nào có phận nấy, sẽ kíp bắt tay vào việc kẻo vì chậm thuốc mà cơn bệnh đã quá trầm trọng rồi, khó mà thuyên giảm được.

Yêu cầu các nhà chính trị, dùng quyền pháp luật và cơ cấu xã hội mà bảo vệ công nhân.

Yêu cầu các kẻ giàu và các chủ nhân tỉnh thức lại với phận sự. Yêu cầu các công nhân ý thức số phận nguy cấp của họ mà tiếp tục đòi quyền lợi của họ theo đường ngay và nẻo chính.

Theo lời Ta tuyên bố ngay từ đầu: chỉ có đạo thánh Chúa mới trừ diệt tật nạn từ tận gốc. Vậy ai cũng phải thú nhận rằng điều cần thiết nhất ta phải thực hiện ngay là phục hưng phong hóa Kitô hữu trong đời sống. Thiếu điều kiện này, dầu những phương tiện hiệu nghiệm nhất do trí thông minh người phàm bày vẽ được cũng sẽ khó đưa lại những kết quả hữu ích.

Còn Giáo hội sẽ không bao giờ ngừng hành động tùy theo tài lực. Những hành động ấy càng được tự do khuếch trương thì càng chắc hiệu lực nhiều.

Điều Ta mong nhất là tất cả những ai có phần trách nhiệm đến công ích sẽ hiểu rõ điều này. Mong hàng giáo phẩm tận tâm hiệp lực và dùng đủ mọi phương tiện họ nhiệt thành nghĩ ra được, để tuân theo huấn thị và gương tốt của anh em mà tái huấn mọi giai cấp xã hội, cho thích hợp với luật Phúc âm về đời sống Công giáo.

Chớ gì các giáo sĩ, theo quyền hạn mình mà nỗ lực cứu dân độ thế, nhất là chăm chú vun trồng trong chính mình họ và làm trổ sinh nơi các kẻ khác, bất phân kẻ sang người hèn, đức bác ái của Phúc âm là nhân đức chỉ huy và làm nảy sinh các nhân đức khác.

Quả thực muốn cứu giúp các dân tộc, cần nhất là làm cho đức bác ái lan tràn thiên hạ. Ta nhấn mạnh vào điều đó. Đức bác ái của đạo thánh Chúa gồm tóm cả Phúc âm, và luôn luôn khiến người sẵn sàng hy sinh để cứu giúp anh em đồng loại.

Nhân đức này là môn thuốc hiệu nghiệm để trị tính kiêu hãnh của người đời và diệt trừ lòng tự ái quá độ. Chính là nhân đức mà thánh Phaolô diễn tả thiên vụ và tính cách siêu nhiên rằng: đức bác ái thì kiên nhẫn, hòa nhã, không tìm tư lợi. Đức bác ái chịu mọi sự đau khổ và chịu đựng mọi căm hờn.

Để bảo đảm ân huệ Chúa sẽ ban dồi dào, và tỏ lòng nhân ái, Ta hận hạnh ban phép lành Tòa Thánh cho toàn thể anh em giáo sĩ và tín hữu trong Chúa

Ban bố tại La Mã

Cạnh Đền thờ thánh Phêrô, ngày 15 tháng 05 năm 1891

+ Lê-ô XIIIGiáo Hoàng

Thông Điệp TỨ THẬP NIÊN (QUADRAGESIMO ANNO)

Về việc xây dựng trật tự xã hội

15-05-1931

I.     Lời mở đầu

  1. Bức thông điệp Rerum Novarum (RN) đã xuất hiện được bốn mươi năm rồi. Thế giới Công Giáo chuẩn bị mừng kỷ niệm một cách hết sức long trọng. Ai cũng đầy lòng biết ơn tòa thánh vì văn kiện đáng ghi nhớ này. Một văn kiện minh chứng lòng nhiệt thành của Đức Tiên Giáo hoàng đối với giáo mục của Ngài. Một văn kiện rất quan trọng đã được chuẩn bị từ trước, trong bao bức thông điệp khác: về gia đình, về phép hôn phối, về nền tảng xã hội nhân quyền, về nguồn gốc chính quyền, về những mối tương quan giữa Giáo hội và xã hội quốc gia, về nghĩa vụ công dân của giáo dân, về cách biện bác chủ nghĩa xã hội, về các tà thuyết do chủ nghĩa tự do cá nhân và bao nhiêu tài liệu khác, giãi bày lý tưởng xã hội của ngài.

Nhưng bức thông điệp “RN” trổi vượt mọi văn kiện khác, vì hai lý do: thứ nhất vì là một bức thông điệp rất hợp thời, không đời nào cần thiết bằng đời ta bây giờ. Thứ hai vì bức thông điệp ấy giải quyết mọi vấn đề đời sống cộng đồng nêu lên. Là những vấn đề tóm tắt trong “vấn đề xã hội.”

  1. Một bức thông điệp rất hợp thời.
  2. Thế kỷ XIX xế chiều, sự phát triển kinh tế, sự tiến hóa của kỹ nghệ ở hầu hết các dân tộc đã phân chia xã hội thành hai giai cấp. Giai cấp này gồm thiểu số, nhưng toàn những người giàu sang tha hồ hưởng dụng mọi sáng kiến khoa học tiên tiến. Giai cấp kia gồm đa số, nhưng toàn công nhân khốn cực, không thoát được cảnh bần cùng. Tình trạng thê thảm ấy, kẻ dư của thì chịu đựng một cách rất dễ dàng, họ cho rằng: Đó là hậu quả không tránh được của những luật kinh tế tự nhiên. Nên họ lầm tưởng công cuộc bác ái san bằng được mọi bất công, mà những pháp luật nhân tạo thường bỏ mặc và nhiều khi lại còn che chở nữa.
  3. Nhưng công nhân đã quá khổ cực, vì tình trạng ấy. Sau một thời gian cam chịu, họ quyết trút bỏ gánh nặng nề ấy, không muốn gánh vác lâu hơn nữa.

Người thì sôi nổi lên vì những lời thúc đẩy họ chỗi dậy, mà đảo lộn xã hội từ ở tận nền móng. Người thì không chịu trôi theo những phong trào ấy, vì họ đã được giáo dục theo đạo Chúa Kitô. Nhưng dầu sao họ cũng đồng ý về một điểm khẩn cấp là “phải cải hóa xã hội tận cội rễ”.

  • Đó cũng là ý chí của bao nhiêu Kitô hữu, của giáo sĩ hay giáo dân đã đem lòng bác ái dũng cảm mà tìm trăm ngàn phương cách, làm giảm bớt sự khốn cực bất công của dân chúng. Họ không chịu nhận sự chênh lệch quá đỗi trong cách phân công chia của, như là sự tự nhiên Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan đã tiền định cho nhân loại. Thành ra họ cứ thành thực tìm những môn thuốc linh nghiệm hoặc để sửa chữa những tệ đoan của xã hội hiện tại, hoặc để đề phòng cho xã hội khỏi lâm vào những tai hại khủng khiếp hơn nữa.
  • Nhưng lý trí con người mù mịt yếu đuối. Những người thiện chí hoặc bị xua đuổi như thể họ chỉ là những nhà cách mạng đáng sợ; hoặc bị chia rẽ vì có sự bất đồng ý ngay giữa họ, nên họ cứ lưỡng lự giữa những lập trường khác nhau. Như vậy họ không biết phải chọn lấy đường nào? Trong những sự mâu thuẫn khiến mọi người không ai đồng ý với ai thì hòa bình thế giới lâm nguy. Thành ra lần nữa họ đưa mắt nhìn về Tòa thánh Phêrô là kho lẫm chân lý, tự nhiên phát ra những lời cứu chuộc hằng chảy tràn khắp thiên hạ. Một phong trào rộng lớn chưa bao giờ từng thấy, lôi cuốn họ về với “Đấng đại diện Chúa Kitô ở dưới thế”. Vô số người trí thức, kỹ nghệ, công nhân tha thiết đòi hỏi những nguyên tắc vững chắc, họ có thể thích dụng để thoát khỏi mọi sự thắc mắc mà đứng một mình không ai giải quyết được.
  • Vì trí khôn ngoan Đức Giáo hoàng đã gẫm thế sự trước mắt Chúa lâu năm, Ngài cũng cầu vấn bao nhiêu nhân vật lỗi lạc, Ngài cũng chăm chú tìm hiểu vấn đề đủ mọi mặt. Rồi ý thức sứ vụ tông đồ Ngài đảm nhiệm; thì Ngài mới sợ nếu im tiếng mãi là tỏ mình chểnh mảng trong phận sự.

Ngài dùng linh quyền giáo huấn Chúa đã uỷ thác cho mà quyết định ban huấn dụ này cho Giáo hội Chúa Kitô nói riêng, và cho toàn thể nhân loại nói chung.

  • Ngày 15 tháng 5 năm 1891, tiếng Tòa Thánh mà cả thế giới đã mong nghe từ lâu, đã vang dội khắp cả thiên hạ; một tiếng vang không chút run rẩy trước thời cuộc gay go, mà lại không yếu đi chút nào vì tuổi tác cao; một tiếng vang mạnh bạo đã định hướng mới cho cả nhân loại phải noi theo trên địa vực xã hội hiện tại.
  • Học thuyết xã hội gồm tắt trong bức thông điệp RN.
  • Anh em thừa biết học thuyết khả kính, đã được giãi bày trong bức thông điệp “RN” rồi chứ ! Bức thông điệp ấy thật đáng ghi nhớ muôn đời.

Đại Đức Tiên giáo hoàng, động lòng trước thân phận bao nhiêu người hạ lưu trong xã hội, nói được là đa số; nhưng dầu vô tội cũng phải sống trong cảnh khốn cực đầy rủi ro. Ngài dũng cảm quyết chí bênh vực công nhân tội nghiệp sống trơ trọi, không ai bảo hộ mà lại bị thời thế vô tình đẩy vào tay những chủ nhân vô nhân đạo, chỉ biết cạnh tranh đua giàu khoe sang. Ngài chẳng tin tưởng ở chủ nghĩa tự do, và cũng không hy vọng nơi chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tự do đã tỏ mình hoàn toàn bất lực, không giải quyết được vấn đề xã hội. Còn chủ nghĩa xã hội lại đề nghị một giải pháp còn tệ hơn cả tật nạn nó tìm sửa chữa. Vì nó mà xã hội nhân loại càng ngày càng lâm nguy.

  • Vậy căn cứ vào giáo quyền và thiên chức đặc biệt Ngài được Thiên Chúa uỷ cho, là bảo vệ tôn giáo và mọi quyền lợi liên quan đến tôn giáo, thì Ngài đã tin chắc rằng vấn đề xã hội không thể nào giải quyết được một cách phải lẽ “ngoài ảnh hưởng Giáo hội và tôn giáo, nhờ những nguyên tắc bất di bất dịch của đạo nghĩa chính trực, và đạo Chúa mạc khải”. Đức Tiên Giáo hoàng đem hết linh quyền vững chắc của Ngài mà ấn định và tuyên bố công nhiên:

a).  Nghĩa vụ và quyền lợi riêng của chủ nhân và công nhân: của tư bản và cần lao trong xã hội.

b).  Phận sự riêng của Giáo hội,  của chính phủ và của mọi công nhân, trong việc giải quyết vấn đề xã hội tương tranh này.

Tiếng của Ngài đã vang dội khắp thiên hạ không phải là vô ích đâu.

  1. Thiên hạ nghe đến thì cảm phục tạ ơn. Giáo dân phục quyền Giáo hội đã đành. Nhưng còn bao nhiêu người khác, hoặc vô tín ngưỡng, hoặc đã lạc đường chính, cũng đã nêu lên vấn đề kinh tế xã hội, trong phạm vi tìm hiểu (speculation) và pháp lý.

Mừng nhất là các công nhân kitô hữu. Họ cảm thấy giáo quyền trổi vượt mọi thế quyền trên mặt đất, đã thông cảm và bênh vực quyền lợi của họ. Những người vị tha đã tìm cải thiện công nhân từ lâu, nhưng đã bị chế nhạo, ngờ vực, nhiều khi lại bị phản đối công khai nữa, nay đã lại phấn khởi lên.

Bức thông điệp đã được ai nấy đua nhau đón nhận một cách long trọng nghiêm chỉnh. Đến nỗi dân nào nước ấy cũng tìm trăm cách kỷ niệm hằng năm bằng những lễ ghi ơn lừng lẫy.

  1. Những huấn thị của Đức Lêô XIII thì rất cao thượng và khả kính; nên mới được thiên hạ đồng thanh nghênh tiếp như thế. Nhưng tiếc thay cũng đã từng có những nhà trí thức, gồm có cả giáo dân, náo động bất mãn. Người thì sinh lòng hồ nghi, người thì vấp ngã trước một học thuyết mới lạ như vậy. Những ngẫu nhiên do chủ nghĩa tự do dựng lên, đều bị lật đổ. Bức thông điệp ấy không quản ngại gì đến những thành kiến quá khứ. Còn đối với tương lai nó khởi xướng một phong trào chưa có ai nghĩ tới. Những người còn giữ óc tồn cổ, thì đều khinh chê học thuyết xã hội, và những học thuyết cao siêu này. Kẻ khác thì cảm phục lý tưởng xã hội của Đức Giáo Hoàng là một lý tưởng rực rỡ, nhưng lại cho rằng chỉ là một ảo tưởng không thể nào thực hành được. Ai cũng có thể mong chờ, nhưng không ai hy vọng thực hiện nó được.
  2. Mục đích bức thông điệp mới.
  3. Vì thế anh em khả kính đang khi thế giới náo nhiệt mừng lễ “đệ tứ thập chu niên” của bức thông điệp “RN”,  thấy các công nhân kitô hữu ở khắp tứ phương tuôn đến thành thánh Lamã, thì Ta thừa dịp rất thuận tiện này mà nhắc lại những ân huệ phi thường mà bức thông điệp ấy đã đem lại cho cả nhân loại nói chung. Học thuyết canh tân kinh tế xã hội của Đức Lêô XIII thì thật vĩ đại, nên đã bị bao người ngờ vực cảnh cáo. Vậy kèm theo sau, Ta sẽ bênh vực và giảng giải một vài điểm chính chưa được hiểu rõ. Sau hết, Ta sẽ luận xét chế độ kinh tế hiện tại và phi bác chủ nghĩa xã hội. Đã định rõ tệ đoan xã hội ngày nay phát nguồn tại đâu, thì Ta sẽ chỉ vạch đường lối duy nhất, ai cũng phải theo để tu bổ lại xã hội cận kim, tức là cải tạo phong tục thế giới theo lý tưởng Phúc Âm.

Bức thông điệp này sẽ chia ra làm ba phần tùy theo các vấn đề Ta mới nêu lên. Rồi Ta sẽ dành toàn thư để tìm một giải pháp hợp lý hợp thời.

II.   Những hiệu quả bởi bức Thông điệp “RN”

  1. Trước khi nhập đề tìm giải quyết điều thứ nhất theo ý Ta đã định, Ta không khỏi quên lời thánh Ambrôsiô khuyên rằng: “Trọng nhất trong những phận sự của Ta là tạ ơn Chúa liên lỉ ”. Nhớ đến những ân huệ quý hóa bức thông điệp của Đức Lêô XIII đã đem lại cho Giáo hội và cả nhân loại; trước tiên Ta phải đội ơn Chúa không ngừng, dầu chỉ muốn lược thảo những ân huệ đó sơ qua, thì thật Ta cũng phải thuật lại lịch sử xã hội, trải qua bốn mươi năm vừa rồi. Nhưng Ta có thể tóm tắt mọi điểm chính, tùy theo ba phương dược, mà Đức Tiên Giáo Hoàng đã đề nghị để hoàn tất công việc canh tân xã hội, ngài đã đảm nhiệm.

 1.   Sự  can thiệp của Giáo hội.

  1. Trước tiên Đức Lêô XIII đã định rõ những điều thế giới có quyền đòi ở Giáo hội. Ngài viết: (x. RN 13)

Phần lý thuyết:

Những tài liệu quý giá này, Giáo hội không bao giờ bỏ hoang đâu. Mà cứ khai khẩn mãi, để gây thái bình cho xã hội. Đức Lêô XIII, và những giáo hoàng kế tiếp Người đã dùng lời nói và bút mực mà nhiệt thành truyền bá học thuyết kinh tế xã hội tóm tắt trong bức thông điệp “RN”; các ngài không bao giờ ngừng thúc đẩy dân nước thực hành và áp dụng học thuyết ấy, vào thời thế hoàn cảnh xã hội hiện tại. Lúc nào các ngài cũng tỏ lòng nhiệt thành và tỏ tình nghĩa phụ tử với những người bần cùng yếu đuối. Vì các ngài là Chúa chiên dũng cảm, thì các ngài cũng mạnh sức bảo vệ các dân đen. Theo bản ý của Tòa Thánh, cũng đã không thiếu gì những Giám mục sáng suốt nhiệt thành vừa trình bày giải pháp vừa áp dụng học thuyết xã hội của Đức Lêô XIII cho các dân nước đều hưởng lợi.

  1. Bởi thế Ta không ngạc nhiên gì khi thấy bao người trí thức, giáo sĩ và giáo hữu hết sức quý chuộng và nhiệt tâm phổ biến những kỷ luật kinh tế xã hội của Giáo hội tùy theo những đòi hỏi của thời thế. Mục đích của họ là áp dụng vào những trường hợp hằng thay đổi. Những nguyên tắc bất di bất dịch của Giáo hội về đời sống cộng đồng của nhân loại.
  2. Lấy bức thông điệp của Đức Lêô XIII làm căn bản và tỏa sáng học thuyết xã hội Công Giáo, hiện ra và phát triển càng ngày càng phong phú hơn. Những người ưu tú, đêm ngày lưu tâm đến việc tối hệ trọng này, buộc ta phải gọi họ là những người phụ tá của Giáo hội. Học thuyết xã hội này không giam kín vào những trường học mờ tối đâu, trái lại nó đã ra mặt trận chiến đấu công khai. Một bằng cớ rõ ràng là những công trình vĩ đại của các đại học Công Giáo, các hàn lâm viện, các chủng viện các hội nghị thường gọi là “những tuần lễ khảo cứu về xã hội” đã được tổ chức không biết bao lần rồi và đã kết quả bất ngờ. Thêm vào đó là những hội học, những sách vở báo chí muôn mặt đã được phổ biến khắp nơi một cách rất hợp thời.

Bức thông điệp của Đức Lêô XIII hữu ích như vậy, không phải là hết đâu. Những bài học đó, đã dần dần tiêm nhiễn luôn cả tâm hồn những người thiện chí không được hân hạnh hợp nhất với Giáo hội, vì chưa phục quyền duy nhất của Người.

  1. Như vậy những nguyên tắc Giáo hội đã đề cập về xã hội, đã dần dần hóa nên sản nghiệp chung của nhân loại. Ta hết sức mừng rỡ, khi thấy những chân lý vĩnh cửu, Đức Tiên Giáo hoàng đã công bố mỗi ngày một được đề cập và bảo vệ ráo riết hơn trong các sách vở báo chí Công Giáo và không Công Giáo, và trong cả các quốc hội và tòa án.

Hơn thế nữa, sau một cuộc thế chiến kinh khủng, các nhà chính trị ở các cường quốc đã quyết định cải tạo đời sống xã hội để xây dựng hòa bình thế giới cho kiên cố. Vậy những nguyên tắc họ đề cập để tu bổ lại nền cần lao cho công bằng và bác ái, đều giống những nguyên tắc và huấn dụ của Đức Lêô XIII, đến nỗi ta có cảm tưởng rằng: những nguyên tắc ấy bởi bức thông điệp “RN” trích ra. Thực sự bức thông điệp ấy đáng ghi nhớ. Ta có thể áp dụng vào nó, lời tiên tri của Isaia đã nói: “Đó là một biệt hiệu đã được dựng lên cho các dân nước thiên hạ”.

Phần thực hành.

  1. Những nguyên tắc Đức Lêô XIIIb đã đề cập đến, ai cũng đã tìm hiểu sâu rộng trong phạm vi lý thuyết, và nhờ đó đã tiêm nhiễm tâm trí xã hội. Nhưng quý hơn nữa là những nguyên tắc ấy đã được áp dụng vào thực tế. Trước hết bao người thiện chí đã nỗ lực nâng cao địa vị sinh hoạt của các công nhân. Dầu giai cấp lao động càng ngày càng thêm đông, dầu đại kỹ nghệ ngày một phát triển thêm, giới lao động cũng không chiếm lấy được một địa vị khả quan hơn trong xã hội. Nên công nhân vẫn trơ trọi mà lại bị khinh chê nữa. Ta nói về giới lao động mà các linh mục triều hay tu dòng đã tìm giải phóng không cứ gì những công việc mục vụ mà họ gánh vác từ trước dưới quyền chỉ dẫn của các giám mục; những linh mục ấy đã tận tâm với các công nhân, thì công nhân hưởng lợi rất nhiều, vì linh mục bền chí, thì tinh thần công giáo của công nhân lại cao lên. Nhờ đó, công nhân mới ý thức chức vụ. Họ ý thức phận sự và quyền lợi giai cấp của họ. Họ lại đủ năng lực mà tiến bước trên đường công lý, tiến triển, đến nỗi họ đứng dậy hướng dẫn được anh em đồng nghề.

Kết quả là các công nhân kiếm được sinh kế dồi dào và vững chắc hơn. Theo lời Đức Tiên Giáo hoàng khuyên nhủ, không những các việc bái ái từ thiện được phát triển, mà lại theo ý sở nguyện của Giáo hội, nhờ sự hấp dẫn của các linh mục. Ta đã thấy những công cuộc ủng hộ và viện trợ công nhân càng ngày càng được thiết lập nhiều, và đoàn tụ đủ mọi người nông dân và lao động…

 2.   Sự can thiệp của chính quyền.

  1. Chính quyền đã bị chủ nghĩa tự do chế ngự trong phạm vi bảo vệ trật tự và luật pháp. Đức Lêô XIII mạnh bạo phá vỡ những biên giới chật hẹp ấy. Ngài công bố rằng: chính quyền phải lợi dụng luật pháp và mọi cơ cấu xã hội để thiết lập một hiến pháp và một nền hành chánh đủ năng lực để phát triển sự thái bình công và tư. Đã đành chính quyền phải nhường chỗ cho từng cá nhân và từng gia đình đủ quyền tự do hành động. Nhưng với hai điều kiện cần thiết; thứ nhất là giữ công ích nguyên vẹn; thứ hai là giữ quyền bất khả xâm phạm của tư nhân. Đã đành chính quyền phải bảo vệ cả cộng đồng xã hội, nhưng chính quyền cũng phải bảo vệ từng công dân tự nhiên hợp với nhau thành cộng đồng xã hội. Vậy trong việc bảo vệ từng công dân, chính quyền phải săn sóc riêng những người bần cùng và yếu đuối (x. RN 19).
  2. Ta không dám chối rằng, trước khi bức thông điệp của Đức Lêô XIII xuất hiện, thì bao chính phủ cũng đã cung cấp những sự cần thiết thượng khẩn của giới lao động rồi; họ đã bài xích những tai hại các công nhân dầu vô tội cũng đã phải chịu từ trước. Nhưng chỉ có khi nào Tòa Thánh can thiệp, tiếng Đức Giáo Hoàng vang dội khắp thiên hạ, là khi ấy các nhà cầm quyền ý thức sứ vụ và tận tâm hiệp lực mới bắt đầu thực hành một chính sách xã hội rộng rãi hơn.
  3. Những định lý của chủ nghĩa tự do đã từ lâu năm làm cho chính quyền tỏ ra bất lực. Vậy đang lúc những định lý giả dối này bắt đầu lung lay, bức thông điệp RN hiện ra. Ngay từ ở trong đại chúng, một phong trào mãnh liệt bùng nổ, vừa đòi hỏi vừa ủng hộ một chính sách xã hội hiệu lực hơn. Chính quyền lại được những giáo dân ưu tú mạnh sức chống đỡ, vì chính họ đã đề cập bộ luật mới này trong các quốc hội xưa nay. Hơn nữa, nhờ bao linh mục thấu triệt học thuyết xã hội của Đức Lêô XIII can thiệp, thì mới có nhiều luật lệ xã hội được đưa ra cho các quốc hội phê chuẩn. Cũng vì các linh mục ấy ân cần thúc đẩy, những luật lệ ấy đã được thi hành vẹn toàn.
  4. Nhờ những người thiện chí tận tâm hiệp lực như vậy, một bộ pháp luật mới đã xuất hiện. Đời trước không ai biết đến, ngày nay ai cũng hưởng lợi. Những quyền lợi bất khả xâm phạm công nhân đã có sẵn, vì nhân phẩm hay chức vị kitô hữu của họ, được tôn trọng cho cân xứng. Những điều luật bảo vệ giới lao động ấy, thì bao quát cả địa vị sinh hoạt của công nhân nam nữ; tuổi trẻ, sức khỏe, năng lực, gia đình, nhà ở, xưởng máy, tiền lương và bảo hiểm những sự rủi ro của cần lao.
  5. Ta không nói được những điều luật ấy lúc nào và nơi nào cũng hoàn toàn thích ứng với những nguyên tắc Đức Lêô XIII đề cập. Nhưng không ai chối được rằng bức thông điệp RN đã có ảnh hưởng đến. Thành ra sự cải thiện địa vị sinh hoạt của công nhân, phần lớn là do bức thông điệp quý giá của Đức Lêô XIII, là một bức thông điệp đáng ghi nhớ muôn đời.

 3.   Sự cộng tác của chủ nhân và công nhân.

  • Đức Tiên Giáo hoàng lại sáng suốt chứng minh rằng: chính các chủ nhân và công nhân có thể góp phần hiệu nghiệm trong việc giải quyết vấn đề xã hội, nhờ những công cuộc vừa để nâng đỡ kẻ bần cùng vừa tìm hòa giải hai giai cấp. Trong những công cuộc ấy, cần thiết nhất theo ý Ngài là những nghiệp đoàn hoặc riêng cho công nhân, hoặc chung cho cả công nhân và chủ nhân. Đức Giáo hoàng viết vài lời hoặc ca tụng hoặc củng cố những hội đoàn ấy. Ngài định nghĩa bày tỏ lý do, sự hợp thời, quyền lợi, nghĩa vụ và các luật lệ vốn điều khiển những tổ chức như vậy.

Những huấn thị này quả thực là rất hợp thời. Thời kỳ đó, ở nhiều quốc gia, chính quyền thụ hưởng chủ nghĩa tự do, nên ác cảm với những hội đoàn bảo vệ lao động, nhiều khi họ lại phản đối công khai nữa. Họ tình nguyện chuẩn y ủng hộ những hội đoàn tương đương được sáng lập trong những giai cấp xã hội khác. Nhưng nhất định chối không cho lao công hợp đoàn, đó là một thái độ bất công rõ ràng, vì quyền họp đoàn là quyền tự nhiên của con người mà họ chối không cho lao động là kẻ cần phải họp đoàn mới tự cứu mình khỏi bị những người mạnh quyền áp bức.

Ngay trong những giới Công Giáo, những cố gắng hợp đoàn của công nhân cũng bị tình nghi là những mưu mô của phái xã hội và bọn cách mạng.

a.   Hội đoàn lao công

  • Những huấn lệnh uy quyền của Đức Lêô XIII, đã có công phá mọi trở lực, giải tán mọi tình nghi. Nhưng vinh hạnh nhất là theo những huấn lệnh ấy, bao nhiêu người lao công Kitô hữu đã đua nhau tổ chức nghiệp đoàn, theo lời Đức Lêô XIII đã chỉ dạy cho. Nhờ đó họ giữ lại trên đường chính những công nhân bị lôi cuốn quyết ghi tên vào những tổ chức do chủ nghĩa xã hội lập ra rồi tự đắc chỉ có họ mới bảo vệ và ủng hộ người bần cùng, kẻ bị áp bức.
  • Về việc lập các hội đồng công nhân Kitô hữu, bức thông điệp “RN” có câu rằng: (RN 42,43).

Đâu đâu cũng có linh mục hợp tác với giáo dân lập các nghiệp đoàn nói trên. Các ngài đáng khen vì đông mà lại rất tận tâm với học thuyết của Đức Lêô XIII mà họ đã quyết thực hành. Nhờ những hội đoàn ấy, có cả một thế hệ công nhân kitô hữu được huấn luyện chu đáo, tìm hòa nhịp trong đời sống những đòi hỏi công nghề với những tín ngưỡng công giáo của họ. Nhờ đó họ được đủ sức mạnh để bảo vệ phận sự và quyền lợi thế tục của họ một cách cương quyết vừa thích hợp với công lý. Họ lại đem lòng thành thực hợp tác với các giai cấp xã hội khác để phục hưng lại xã hội theo lý tưởng Phúc Âm.

Học thuyết và huấn lệnh của Đức Lêô XIII nhờ đó mà được thực hiện theo trăm ngàn thể thức tùy thời thế hoàn cảnh đòi hỏi bắt buộc. Chỗ này thì chỉ lập ra một tổng hội theo đuổi mục đích của Đức Lêô XIII đề cập, nơi khác vì hoàn cảnh cần lao chuyên biệt, hội đoàn này thì bảo vệ quyền lợi và bổn phận công nhân trong phạm vi cần lao; hội đoàn kia thì lại chuyên lo tổ chức việc công nhân nâng đỡ nhau trong phạm vi kinh tế. Còn về tôn giáo và luân lý hay những sự cần tương đương như vậy thì có những hội đoàn khác chuyên lo.

  • Tổ chức thứ hai này ưu thắng hoặc ở những chỗ luật pháp kinh tế hay xã hội nghiêm khắc bắt buộc, hoặc ở những chỗ công nhân phải đối phó với những phong trào phá rối trật tự bằng một mặt trận thống nhất, cấm ngặt không được lập nghiệp đoàn lao công Kitô hữu công khai. Trong những trường hợp ấy, công nhân Công Giáo hầu như bắt buộc phải nhập vào những nghiệp đoàn trung lập, nhưng tôn trọng công bằng bác ái và quyền tự do sống theo lương tâm và luật Giáo hội. Các Giám mục phải kiểm soát và quy định các hội đoàn ấy có thích hợp với thời thế hoàn cảnh, mà có nguy hiểm gì cho đạo Công Giáo chăng. Nếu có đủ điều kiện các ngài có quyền rộng phép cho các công nhân Công Giáo nhập vào tùy theo những luật lệ và những huấn lệnh của Đức Piô X, Đức Tiên Giáo Hoàng khả kính của chúng ta. Theo những huấn lệnh ấy, điều cần thiết nhất là bên cạnh các công đoàn này, phải lập những hội đoàn Công Giáo luôn luôn tận tâm huấn luyện công nhân cho họ chóng trở nên những Kitô hữu thấu đạo, thông luân lý, và hằng tiêm nhiễm tinh thần Phúc Âm vào mọi hành động sinh hoạt của họ. Nhờ vậy các hội đoàn kia có lẽ sẽ gây ảnh hưởng rộng ra ngoài cả phạm vi đời sống riêng của các cá nhân.

b.   Những hội đoàn hành động trong các giai cấp khác.

  • Hơn thế nữa, những huấn dụ khôn ngoan, những huấn lệnh rõ rệt của Đức Lêô XIII về quyền tự do hội họp, đã được thích dụng trong những giai cấp không phải là lao động. Bức thông điệp của ngài đã gây dịp rất thuận tiện cho bao nhiêu hội đoàn hữu ích khác được thành lập và phát triển mạnh trong giới nông dân. Giới trung lưu và nhiều tổ chức tương đương khác, hằng dung hòa nguồn lợi kinh tế với phận sự giáo dục con người.

c.   Công đoàn chủ nhân.

  • Nhưng ta không thể nào nói thế, về các hội đoàn chủ nhân hay chủ nghiệp mà Đức Tiên Giáo Hoàng đã hết sức mong ước. Ta cũng rất tiếc vì những hội đoàn ấy còn hiếm quá. Cái đó không phải là chỉ lỗi tại người ta đâu. Về đàng ấy đời Ta đầy những trở lực chẳng mấy ai thắng nổi. Ta biết những trở lực ấy, mà lại lượng giá cho cân xứng nữa. Nhưng Ta cũng mong ước những trở lực ấy trong một ngày gần đây sẽ tan đi. Ta đón mừng và thành thực ca tụng những cố gắng hùng dũng của bao người thiện chí, đáng rút kinh nghiệm về đàng ấy. Chắc thể nào chẳng bao lâu nữa, họ sẽ được hái quả tốt đẹp hơn cả những hoa quả họ đang mong.

Bức thông điệp RN là hiến chương của lao động.

  • Những ân huệ bởi bức thông điệp RN Ta chỉ lược qua vậy thôi, không diễn tả hết được. Những hiệu quả vô số và quan trọng do bức thông điệp ấy gây nên chứng tỏ rõ rằng chủ nghĩa xã hội của Đức Lêô XIII không phải chỉ là một ảo tưởng rực rỡ nhưng không ai thực hành được đâu. Đó là một lý tưởng rất đẹp. Đức Tiên Giáo Hoàng đã rút sẵn ở trong nguồn sống của Phúc Âm, một học thuyết hiệu lực có lẽ chưa giải quyết hết mọi vấn đề xã hội hiện tại, nhưng ít nhất cũng giảm bớt được tai hại của một xã hội tương tranh kịch liệt gây nên. Bức thông điệp của Đức Lêô XIII là một hạt giống đã được gieo rắc một phần nào trong những đồng ruộng phì nhiêu. Bằng chứng rõ ràng là những hiệu quả rất đẹp mà nhờ ơn Chúa, Giáo hội và cả nhân loại đã gặt hái trong 40 năm vừa qua.
  • Với thời gian, bức thông điệp RN đã dần dần hiện ra là hiến chương của mọi hành động Công Giáo trong phạm vi xã hội. Ai khinh thường bức thông điệp được cả thế giới long trọng kỷ niệm năm nay, thì rõ ràng là kẻ khinh thường những sự mà họ chưa biết. Hoặc kẻ ấy chưa hiểu những điều tai đã nghe, hoặc là người hiểu biết hết, nên đáng bị kết án là kẻ vong ân và bất công.

Cũng với thời gian, đã có những đoạn trong bức thông điệp, hoặc bị người ta hồ nghi không biết phân giải thế nào, hoặc khiến người ta hoang mang không biết áp dụng làm sao cho hợp lý. Thỉnh thoảng cũng đã từng có những cuộc bàn luận sôi nổi giữa giáo dân về những vấn đề đó. Ngoài ra những đòi hỏi của đời ta bây giờ, những biến cố lớn đã xảy ra trong phạm vi quốc tế cũng buộc ta lên tiếng, hoặc để chỉ lối áp dụng học thuyết xã hội của Đức Lêô XIII, hoặc bổ khuyết những quan điểm còn thiếu, Vậy cứ theo sứ vụ tông đồ buộc ta phải phụng sự toàn thể nhân loại, ta hân hạnh nhân dịp rất thuận tiện này để giải quyết những điều còn khắt khe và giải đáp những vấn đề mới được nêu lên.

III.       Học thuyết công giáo về vấn đề kinh tế và xã hội.

  • Trước khi nhập đề, Ta đã nhấn mạnh vào nguyên tắc chính Đức Lêô XIII đã đề cao rằng: Ta có quyền mà lại có phận sự đem cả thiên chức uy linh của Ta, để giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi kinh tế và xã hội.

Đã đành sứ vụ riêng của Giáo hội không phải chỉ là dẫn đưa nhân loại đến hạnh phúc tạm gửi chóng qua đời này. Giáo hội phải đưa nhân loại đến hạnh phúc trường sinh. Hơn thế, Giáo hội không sao nhận mình có quyền tham gia vào những việc thuộc về thế tục. Thật ra, để giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội về phương diện kỹ thuật chuyên môn, Giáo hội không những thiếu phương tiện mà lại thiếu luôn cả năng lực. Nhưng dầu thể nào mặc lòng, Giáo hội không thể nào xao nhãng sứ vụ Thiên Chúa đã giao uỷ cho, mà không tham gia vào tất cả mọi phạm vi đời sống có liên quan đến chân lý. Ta có phận sự duy trì những chân lý của Phúc Âm. Ta buộc nhặt phải tuyên bố, giải nghĩa, rao giảng luân lý nữa, về đủ mọi phương diện, bất cứ Ta gặp phải trở lực nào. Vậy không ai chối được tổ chức xã hội và kinh tế tự nhiên liên quan với luân lý. Nên ta có quyền can thiệp vào, ít nhất là về phương diện ấy. Quả thật, phạm vi kinh tế và phạm vi luân lý thì khác nhau xa. Mỗi phạm vi cũng có những nguyên tắc khảo cứu và hành động riêng biệt. Nhưng phân tích kinh tế học và luân lý đến nỗi luân lý không còn ảnh hưởng gì đến kinh tế là lầm to. Đã đành những luật lệ kinh tế thì căn cứu vào thiên nhiên và những năng lực hồn xác của con người. Nhờ đó kinh tế học mới cho ta biết rõ những vật đích kinh tế theo đuổi, mà năng lực cá nhân không sao đạt tới được. Trong những vật đích ấy, nó lại theo đuổi những mục tiêu nào, rồi quyết thực hành những mục tiêu ấy bằng cách nào? Đằng khác lý trí căn cứ vào thiên nhiên, bản tính cá nhân và xã hội của con người để cho ta biết cứu cánh tuyệt đối, mà tạo hóa đã định cho nhân loại phải theo đuổi trong cả phạm vi kinh tế nữa.

  • Nhưng chỉ luân lý mới buộc chúng ta phải theo đuổi những mục tiêu trực tiếp thiên nhiên và nhất là Tạo hóa đã định cho mỗi phạm vi hành động của ta, rồi minh phối những mục tiêu ấy tự nhiên hòa hợp với nhau, theo cứu cánh tuyệt đối ai cũng phải đạt tới trong đời sống của mình. Trung thành theo đuổi cứu cánh này, tất cả mục tiêu riêng loài người quyết đạt tới bằng những hành động cá nhân hoặc xã hội hay kinh tế, sẽ tự nhiên ăn khớp với nhau khôn khéo lạ lùng. Nhờ vậy loài người sẽ tiến dần dần hầu như đi từng bước một trên đường đưa tới tuyệt đỉnh cao thượng muôn vật hằng hướng đến: Tức là Thiên Chúa; đối nội là Đấng hoàn hảo tuyệt mỹ; đối ngoại (tức là đối với nhân loại) là nguồn phúc vô tận tuyệt đối ai cũng mong tới.

   1.  Quyền tư hữu

  • Bây giờ Ta nhập đề. Trong những điều ta quyết bàn giải, điều thứ nhất là quyền tư hữu.

Anh em thân mến, anh em thừa biết Đức Tiên Giáo hoàng đáng nhớ đã bênh vực quyền tư hữu khỏi mọi tà thuyết xã hội đời trước phá tan. Ngài đã chứng tỏ một cách hùng hồn và rõ ràng: Bài trừ quyền tư hữu này thì thay vì gây ích lợi cho giai cấp lao động, chỉ là gây tai hại không tả xiết. Nhưng dầu sao cũng không thiếu người bỏ vạ cho Tòa thánh và cả Giáo hội, mà kêu trách rằng: Đức Tiên Giáo hoàng đã bênh vực và cứ bênh vực mãi kẻ giàu sang mà bỏ mặc kẻ bần cùng vô sản. Thật là một điều lăng mạ không ai chịu được.

Mặt khác, chính giáo dân bất đồng ý về cách giải nghĩa quan niệm của Đức Lêô XIII về quyền tư hữu. Vậy thiết tưởng ta phải rửa nhục cho Giáo hội đã bị cáo gian vì học thuyết xã hội của Đức Lêô XIII, là học thuyết chính thức của Giáo hội, rồi ta phải cải chính những điều đã bị giải thích trái sự thực.

a.   Quyền tư hữu có tư cách cá nhân và xã hội.

  • Một điều ai cũng phải nắm chắc là Đức Lêô XIII và các nhà thần học, đều giải thích giáo lý dưới sự linh ứng và kiểm duyệt của Giáo hội. Các ngài không bao giờ chối và không bao giờ bài bác hai tính cách tự nhiên của mọi quyền tư hữu, bất cứ quyền ấy gây lợi ích riêng cho từng công nhân, hay chỉ quy về công ích của toàn dân. Trái lại ai cũng đồng ý công nhận rằng, quyền tư hữu thì bởi thiên nhiên, tức là bởi Tạo hóa phú ban cho nhân loại. Nhân loại hưởng dụng quyền ấy theo hai mục đích. Thứ nhất là để mọi người tìm kế sinh nhai và cấp đủ sự cần cho cả gia quyến; thứ hai là để mọi của cải Tạo hóa cấp chung cho nhân loại, nhờ quyền tư hữu nói trên được mưu ích thực sự cho từng người. Nên trong thực hành xã hội phải duy trì trật tự tự nhiên và liệu cho có quy cách vững vàng.

Cho nên có hai chướng ngại ai cũng phải cẩn thận tránh xa: chối hay cứ giảm mãi tính cách xã hội và công chính của quyền tư hữu, là sa vào chủ nghĩa cá nhân khốc hại. Trái lại, chối hay cứ giảm mãi tư cách tư nhân của quyền sở hữu lại là sa vào chủ nghĩa tập sản (hay cộng sản) không kém khốc hại. Nếu không sa vào hoàn toàn thì ít nhất cũng là thông phần sai lạc của nó.

Không khéo tránh hai chướng ngại đó, thì thế nào cũng phải quy về phong trào luân lý, pháp luật hay xã hội hiếu tân, mà chính ta đã cảnh cáo ngay từ lúc mới lên ngôi Giáo hoàng.

Yêu cầu mọi người và nhất là những kẻ mới trôi theo phong trào cải tân, (làm ơn chú trọng điểm ấy). Họ vô lý khi quở trách Giáo hội đã mặc các nhà thần học truyền bá quan niệm tha dân xưa về quyền tư hữu, đang lúc họ hấp tấp đề nghị một quan niệm sai lạc, mà họ vô ý thức giới thiệu là quan niệm Kitô hữu chính đáng.

b.   Phận sự kèm theo quyền tư hữu.

  • Bàn tán về những sự xích mích do quyền tư hữu và phận sự kèm theo nó, mà không muốn ngoại đề, thì ta phải nhắc lại nguyên tắc căn bản chính Đức Lêô XIII đã nhấn mạnh từ trước: quyền tư hữu không thể nào hòa lẫn với thể cách dùng quyền ấy. Phận sự tôn trọng sở hữu của từng người, do đức công bằng thường gọi là công bằng giao hoán (justice commutative) bắt buộc. Cũng do một nhân đức ấy, mà mọi người cấm không được vượt qua quyền lợi riêng mà chạm đến quyền lợi kẻ khác. Mặt khác, phận sự buộc các chủ sản dùng quyền sở hữu của họ cho hợp lý; thì do các nhân đức khác, chứ không bởi đức công bằng nói trên mà ra. Vì thế, dầu phận sự dùng của cho hợp lý buộc ngặt thì cũng không ai căn cứ vào pháp luật, để cưỡng bách người ta tuân giữ nó được; thành ra tìm đồng nhất quyền sở hữu và cách dùng sở hữu riêng, là lầm to. Nhưng lầm to hơn nữa là quyết bài trừ quyền tư hữu, nguyên vì lý do người ta đã dùng quyền trái lý, hay cứ bỏ hoang những sở hữu của họ. Trái lại, một việc hữu ích đáng khen là tận tâm hiệp lực tránh xa mọi xích mích là đồng ý với nhau tìm bảo vệ học thuyết xã hội của Giáo hội cho vẹn toàn. Rồi mải miết tìm phân minh những bổn phận chủ sở hữu phải đảm nhiệm đối với xã hội, là định giới hạn quyền tư hữu không thể nào vượt qua cả trong cách hưởng sở hữu. Nhưng tìm giảm bớt tính cách tư nhân của quyền sở hữu này đến nỗi trong thực hành không còn tư nhân nào đòi quyền ấy được nữa, đó thật là lỗi lầm và hại lớn.

 2.   Chính quyền quốc gia.

  • Về vấn đề sở hữu này mọi người phải nhắm hai mục đích. Quyền tư hữu có tính cách tư nhân và xã hội; cho nên ai cũng phải dùng trực tiếp để gây tư lợi gián tiếp để gây ích lợi chung cho cả cộng đồng xã hội. Vậy hễ khi nào có sự khẩn cấp, mà lại luật tự nhiên vẫn lu mờ không rõ, thì các nhà cầm quyền trong xã hội, phải can thiệp định rõ phận sự của từng công dân đối với công ích. Trong những trường hợp đó, chính quyền phải tìm hiểu những đòi hỏi của công ích, rồi ấn định công dân phải dùng sở hữu làm sao cho thích hợp với luật tự nhiên và lệnh Tạo hóa. Đức Lêô XIII sáng suốt dạy rằng: Thiên Chúa đã uỷ việc định hạn sở hữu cho lý trí lỗi lạc của từng người và cho những cơ cấu xã hội của từng dân tộc. Thể cách hưởng dụng quyền tư hữu, cũng như một chế độ xã hội phải thay đổi theo thời thế hoàn cảnh, nên không nói được là sự bất di bất dịch đâu. Điểm ấy lịch sử làm chứng rõ ràng, và chính ta đã nhấn mạnh trong một bài diễn văn khác: (diễn văn cho Công Giáo Tiến Hành Ý, 16.3.1926) Ta nói rằng: “Những thể cách hưởng dụng quyền tư hữu đã biến hóa luôn từ thể cách thô sơ của các dân mường mọi xưa và còn được duy trì ở một vài địa phương, trải qua thể cách tộc trưởng, sang đến thể cách độc tài, phong kiến đế vương vừa rồi, cho đến những thể cách rất phức tạp của xã hội cận kim. Nhưng dầu sao, Ta không nói được trong phạm vi ấy chính quyền định làm gì cũng được đâu. Bất cứ lúc nào quyền tư hữu là quyền tự nhiên và quyền truyền gia sản theo lời thừa kế phải tuân giữ vẹn toàn. Quyền ấy không chính phủ nào bãi bỏ được, vì con người có trước, xã hội có sau; gia đình lại là xã hội có trước, xã hội dân chính mới có sau không những trong lý thuyết mà lại trong cả thực tế nữa. Cũng vì thế mà Đức Lêô XIII đã nói quyết rằng: chính phủ không sao làm kiệt quệ quyền tư hữu của từng công dân vì bắt thuế quá nặng. Quyền tư hữu là quyền thiên tạo chứ không chỉ là một quyền nhân tạo đâu, thành ra chính quyền điều khiển được người ta lợi dụng quyền ấy làm sao cho nó hòa hợp với công ích. Nhưng chính quyền không sao bãi bỏ nó được. Hễ khi nào chính quyền tìm dung hòa quyền tư hữu với công ích, thì chẳng những không đáng gọi là kẻ thù nghịch các chủ sản, mà lại đáng được các chủ sản nhận thực là bạn hữu ân cần cứu thoát quyền tư hữu, vốn được Thiên Chúa quan phòng dựng nên để giúp ích cho nhân loại khỏi gây bao thiệt hại nguy khốn và tự tiêu diệt dần dần. Nhờ vậy, chính quyền không đàn áp quyền tư hữu đâu, mà cứ bảo vệ nó. Thay vì làm cho nó sút kém chính quyền tăng lực cho nó.

 3.   Phận sự đối với hoa lợi tiêu dụng được.

  • Loài người không ai có quyền tiêu dụng phần hoa lợi thừa dư tùy ý sở nguyện. Phần hoa lợi nói đây gồm tất cả phần hoa lợi còn dư sau khi mình đã cấp đủ sự cần cho đời sống luôn luôn cân xứng với địa vị. Trái lại, kẻ giàu sang buộc ngặt phải thí của, làm việc từ thiện, tỏ mình rộng rãi theo lời Thánh Kinh và các tiến sĩ Hội Thánh không ngừng giảng dạy.

Vậy căn cứ vào những nguyên tắc Thánh Thomas thường hay đề cập, Ta có thể kết luận rằng: Những người nào có phần lợi thừa dư mà đem góp vào một xí nghiệp đang phát triển gây dịp cho công nhân tìm việc lĩnh lương phải chăng, mà lại sản xuất những đồ hữu ích thật, thì những người ấy thực hành luật bố thí, làm việc từ thiện một cách rất đáng khen và rất thích hợp với những đòi hỏi của đời ta, ấy là thực hành đức quảng đại thực lòng.

 4.   Quyền sở hữu chính đáng căn cứ vào đâu

  • Theo những phong tục di truyền và phổ biến khắp nơi, theo các huấn thị của Đức Tiên Giáo hoàng Leo XIII, những lý do chính tự nhiên phát sinh quyền sở hữu của bất cứ người nào, thì có hai: tiên chiếm một đồ vật còn vô chủ; lao công để biến hóa một vật liệu nào thành một đồ vật hữu ích có giá trị. Quả thật, không cứ gì những dư luận vô lý bay bổng tiên chiếm những đồ hoang chưa nhập sở hữu của ai hết, không phải là sự bất công đâu, “tiên chiếm giả đắc”. Mặt khác, lấy một đồ vật thuộc sở hữu của mình, rồi xuất công biến hóa thành đồ vật hữu ích và thêm giá trị, cũng là đủ mà đòi toàn quyền đến sản phẩm ấy.

a).  Tư bản và cần lao

  • Kẻ làm mướn, tức là làm việc cho một người hứa trả công và cấp sẵn đủ vật liệu, thì khác hẳn. Ta phải áp dụng cho kẻ ấy những lời tuyên bố của Đức Lêô XIII đã quyết rằng: không ai chối cãi được phúc lợi của các dân tộc đều phát nguồn từ ở cần lao. Ta nhận thấy rằng: Những sản phẩm mênh mông đủ thứ làm cho các dân nước ngày càng phong phú hơn, há chẳng phải do bàn tay lao động phát xuất ư? Dầu họ làm bằng tay hay nhờ những máy móc tăng lực cho, ta cũng phải công nhận những sản vật ấy là công nghiệp của họ. Ai cũng phải nhận rằng: không dân nào thoát khỏi sự bần cùng và sự khốn cực, nếu dân nước ấy không động viên toàn lực để hợp tác vào cần lao; bằng cách lao tâm chỉ huy, hay bằng cách lao động thực hành đủ mọi công việc cần thiết. Đàng khác những năng lực sản xuất kia, chắc thể nào cũng sẽ vô hiệu quả, nếu Tạo hóa dựng nên muôn vật không tỏ lòng quảng đại mà tiềm tàng trong thiên nhiên đủ nguyên liệu và nguyên lực. Ngoài ra cần lao là gì, há chẳng phải là xuất đủ mọi năng lực tâm trí và thể xác, hoặc để cải hóa muôn vật trong thiên nhiên cho hữu ích hơn, hoặc để hưởng dụng những sự vật ấy làm khí cụ thích ứng với công việc mình quyết thực hành ư?
  • Vậy luật thiên nhiên vốn bày tỏ ý Tạo hóa cho nhân loại noi theo, ép buộc ai nấy cũng phải chia sản phẩm của thiên nhiên cho thích hợp với những nhu cầu chính đáng của nhân loại, theo một tổ chức thứ tự hoàn hảo. Luật ấy không sao thực hành được, nếu chúng ta chối quyền sở hữu. Vật nào chủ ấy. Thành ra ngoài trường hợp công nhân dùng vật liệu riêng mà làm việc, thì sự cộng tác giữa người có tư bản và người cần lao làm việc là sự tối cần. Thiếu sự cộng tác này, bên nào cũng ra vô hiệu lực. Những lời Đức Lêô XIII đã nói quyết rằng: cần lao thiếu tư bản, tư bản thiếu cần lao cũng thành vô ích cả hai. Phải hiểu như vậy.

Vì vậy, dồn vào tư bản hay vào cần lao, những công hiệu do cả hai hợp tác gây nên, là một lầm lỗi lớn. Tư bản cảnh cáo cần lao là vô ích, cần lao cảnh cáo tư bản là vô dụng, đằng nào cũng là phạm đến công bằng. Vì cả hai tư bản và cần lao hợp tác chặt chẽ thân mật với nhau thì mới có công hiệu.

b).  Những đòi hỏi vô lý của tư bản

  • Quả thật phần hoa lợi mà xưa nay, tư bản đòi làm phần riêng thì đã quá nhiều. Nó đòi luôn sản phẩm và cả hoa lợi nữa, chỉ nhường cho cần lao đủ tiền lương bổ sức và truyền nòi là một sự bất công. Người ta quyết rằng luật kinh tế thì bất di bất dịch. Nó buộc tư bản chồng chất trong tay cả vốn liếng, và buộc cần lao phải kéo lê một đời sống bấp bênh trong cảnh thiếu thốn bần cùng không ai tránh được. Nhưng cũng may mà thực tế không thích hợp với những lý thuyết mà chủ nghĩa tự do bởi trường Manchester khởi xướng từ trước. Nhưng dầu sao, nền kinh tế xã hội đã không ngừng hướng chiều về những lý thuyết khốc hại đó. Bởi thế không còn ai ngạc nhiên được, khi thấy những huấn lệnh và những tà thuyết ấy bị phản đối kịch liệt từ ở những người không thuộc giai cấp lao công. Vì những tà thuyết ấy công nhận không được vươn mình lên một địa vị sinh hoạt khả quan hơn nữa.

c). Những đòi hỏi vô lý của cần lao.

  • Đối lại bao người trí thức thiện chí nhập vào phe lao động để thúc họ đả phá luật kinh tế giả tạo kia, để áp dụng một luật luân lý cũng hư ảo: Sản phẩm và hoa lợi trừ phần cần thiết để hoàn giao và tu bổ lại tiền vốn đã tiêu xuất, phần còn lại đương nhiên là của công nhân. Đó cũng là một đòi hỏi vô lý và sai lầm. Nhưng còn một đòi hỏi vô lý hơn nữa, là đòi hỏi của chủ nghĩa xã hội đòi phải trao lại cho chính phủ hay quốc hữu hóa tất cả mọi khí cụ sản xuất.

Nhưng dầu không nói rõ đòi hỏi kia sai lầm ở chỗ nào, có lẽ nó nguy hại hơn, vì nó sẽ đánh lừa những người thiếu kinh nghiệm và hay mê tín. Nó là một nọc độc ai thụ hưởng cũng bị say mê. Cả những người kịch liệt chống trả chủ nghĩa xã hội, đã liều mình nếm thử nó.

 5.   Một nguyên tắc chính đáng, phải áp dụng vào việc phân chia hoa lợi.

  • Những tà thuyết bành trướng mãi, thì rất có thể ngăn đường đưa đến công bằng và hòa bình vĩnh viễn. Nên bất cứ bên nào, tư bản và lao công cũng đã cần đến những huấn thị sáng suốt của Đức Tiên Giáo hoàng: “Dầu đã phân chia từng sở hữu riêng, hoàn cầu vẫn mưu ích chung cho toàn thể nhân loại”. Chính Ta mới nhắc lại nguyên tắc ấy rằng: Để mưu ích chung cho nhân loại một cách vững chắc và thứ tự. Tạo hóa mới đặt quyền tư hữu làm phương tiện phân công chia của. Bỏ nhãng nguyên tắc căn bản này là liều mình lạc xa đường chính.
  • Vậy phân chia sản phẩm và hoa lợi lung tung, không phải là phương cách thực hiện ý Tạo Hóa tiền định cho thích hợp với những hoàn cảnh hay thay đổi của nhân loại. Nền kinh tế xã hội càng ngày càng phát triển, sản phẩm càng ngày càng dư thừa. Nên phải lo phân chia hoa lợi làm sao cho từng cá nhân, và đủ mọi giai cấp xã hội hưởng phần công ích theo lời Đức Lêô XIII đã giảng dạy: cho công ích toàn thể xã hội được tôn trọng thật sự. Công bằng xã hội cấm giai cấp này không được làm khó dễ để cho giai cấp kia thông phần hoa lợi cho cân xứng. Giai cấp này hay giai cấp kia cũng lỗi luật chí thánh này như nhau: kẻ giàu sang vì tiền của nhiều nên không cần lo xa. Nếu họ xét đó là một tình trạng tự nhiên chính đáng mà dành hết hoa lợi làm của riêng, không nhường phần nào cho công nhân, thì họ lỗi đến công bằng nói trên. Kẻ vô sản thì khác, họ tức tối cực điểm vì tình trạng quá bất công kia là phải…, nhưng họ cũng mắc lỗi hoặc vì họ chỉ lo quyền lợi giai cấp mới ý thức của họ, mà quyết dồn vào trong tay mình sản phẩm luôn với cả hoa lợi do công việc của họ đã gây nên, vì làm như vậy, họ lên án và quyết bài trừ mọi sở hữu và mọi nguồn lợi tự nhiên có trong xã hội. Theo ý họ không cứ gì bản tính và vai trò những tư bản ấy trong đời sống nhân loại, cũng phải bài trừ vì là công hiệu của cần lao. Về vấn đề ấy Thánh Phaolô đã có câu: “Ai không làm việc thì kẻ ấy không đáng ăn”. Bao nhiêu người cứ căn cứ vào câu đó mà chứng tỏ quyền riêng của lao công. Nhưng ai lại không thấy là vô lý, là ngoại đề. Trong câu ấy, Thánh Phaolô chỉ lên án những người tránh những việc đáng lẽ họ có thể làm mà lại phải làm nữa, mà cứ đòi ăn như thường. Người thúc đẩy ta cứ ân cần với phận sự, dùng năng lực hồn xác để gây ích lợi tư và công, kẻo bắt người ta phải vác lên vai một gánh nặng là cấp sự cần cho ta, đang lúc ta có thể tự túc, và lo thỏa mãn sự cần riêng. Ta không thể nào căn cứ vào câu ấy, mà tuyên bố rằng: Chỉ có một quyền sở hữu chính đáng, là quyền sở hữu bởi cần lao gây nên.

Thành ra một việc thượng khẩn, ai cũng phải đảm nhận: Trước là trả công cho từng người cách xứng đáng, sau là tổ chức sự phân chia hoa lợi theo những đòi hỏi của công ích và đức công bằng xã hội. Cảnh thê thảm của một xã hội giai cấp dành hết của cải trong tay kẻ giàu sang, và mặc kẻ bần cùng đói rách, là tang chứng rõ ràng trước mắt kẻ còn thiện chí, xã hội đang tiến triển nhưng cũng đã lạc đường chính, nên đang ở một tình trạng trầm trọng nguy hiểm.

Phục hưng lại giới vô sản..

  • Mục đích Đức Tiên Giáo hoàng ý thức mục vụ đã theo đuổi, là phục hưng lại giới vô sản trong xã hội. Đó là một phận sự thượng khẩn, ta phải thúc đẩy anh em tận tình lo thi hành. Về phận sự ấy ta phải tha thiết nhấn mạnh, vì ta nhận thật những huấn lệnh của Đức Tiên Giáo hoàng đã bị khinh bỏ, hoặc bị người ta cố tình im lặng không nói đến, hoặc vì người ta ý thức phận sự, nhưng tưởng là quá nặng nề không ai thực hành được mà lại không ai có quyền trốn tránh không chịu nhận được.
  • Cảnh khốn cực ấy, đời Đức Lêô đã kinh khủng thật. Đời ta bây giờ nó giảm bớt nhiều. Nhưng không phải vì thế mà những huấn lệnh của Đức Tiên Giáo hoàng vô giá trị, hay không còn hợp thời nữa đâu. Thú thật địa vị của giới lao công đã khả quan hơn. Thân phận công nhân đã trăm bề dễ chịu hơn. Nhất là trong những quốc gia tân tiến và tiến bộ, công nhân đời ta không thể nào nói được, họ cùng một địa vị khốn cực và bần cùng như nhau. Nhưng mặt khác, đang lúc kỹ thuật và công nghệ lần lượt xâm chiếm các tân quốc gia và các nước viễn đông, thì ta cũng thấy cảnh bần cùng của đa số công nhân vô sản lan rộng và kêu lên thấu trời. Thêm vào đó lại có hằng hà sa số nông dân sống chật hẹp khó khăn, và không chút hy vọng làm chủ ruộng họ cày cấy. Nên không lo liệu gấp và hiệu nghiệm họ sẽ lần lượt nhập vào số kẻ bần cùng, và làm cho giới vô sản tăng số mãi không cùng.
  • Giới vô sản và kẻ bần cùng, quả thật khác nhau xa. Nhưng dầu sao kẻ giầu sang thiểu số mà lại sở hữu rộng lớn, đang sống giữa cảnh đa số kẻ vô sản, là một tang chứng rõ ràng, những sản phẩm do đại kỹ nghệ phát xuất dư dật, chưa được phân chia cho công bằng, và chưa được áp dụng vào những nhu cầu riêng biệt của từng giai cấp xã hội.

*   Phục hưng giới vô sản bằng cách mở đường cho họ chiếm lấy được một sở hữu.

Bởi thế cho nên chúng ta phải hết sức cổ động và dùng trăm phương ngàn cách, để tài sản hiện đang nằm trong tay kẻ tư bản, được giảm bớt cho hợp công lý hơn, và tràn vào giới lao động cho phải chăng. Không phải để công nhân được bớt lao công mà sống an nhàn hơn đâu. Chim có cánh để mà bay, người ta có tay để mà làm. Nhưng để công nhân đủ sống, đủ dành tiền lập tư sản và dần dần nhờ họ sáng suốt tổ chức sản nghiệp riêng, thì họ đối phó lại được với những đòi hỏi của đời sống và những sự cần cho gia đình dễ dàng hơn. Như vậy họ sẽ bớt phần lo xa, không còn sống bấp bênh là thân phận riêng của giới vô sản. Họ sẽ đầy đủ phương tiện đề phòng và thoát khỏi mọi sự rủi ro mà đời sống của họ vẫn không thiếu. Rồi đến lúc chết họ sẽ yên trí vì thân nhân còn sống nhờ công việc của họ chắc được đủ cho đời sống.

Bài này đã được xem 1025 lần!

Pages ( 7 of 16 ): <1 ... 56 7 89 ... 16>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]