CÁC THÔNG ĐIỆP XÃ HỘI

Những quan điểm ấy, trong bức thông điệp “RN” đã được công bố công khai và hiển nhiên. Chính Ta lại tha thiết nhấn mạnh trong bức thông điệp này. Ai cũng phải tin chắc rằng không dựa vào những quan điểm ấy mà để thực hành trong xã hội, mỗi người tùy theo tài lực riêng, thì ta sẽ không bao giờ cứu được trật tự xã hội, hòa bình thế giới và an ninh nhân loại khỏi bị những lực lượng cách mạng đang mạnh tiến xung phong.

Định tiền lương cho thích hợp với công lý.

  • Những huấn lệnh ấy, chỉ có thể thực hiện nếu các công nhân hiện vô sản dư điều kiện và nhờ một đời sống tiết kiệm, lập được một sở hữu riêng, theo lời Đức Tiên Giáo hoàng mà chính ta không ngừng nhắc lại cho thế giới. Vậy nếu họ không căn cứ vào tiền công họ nhận lĩnh hằng tháng, thì họ sẽ căn cứ vào đâu mà tổ chức đời sống tiết kiệm ấy. Những người chỉ có công nhật mà bảo vệ mạng sống và tìm đủ sự cần, nếu số tiền lương không đủ thì sẽ lấy gì mà lập tài sản? Cho nên ta phải bàn luận về vấn đề đồng lương phải chăng, họ có quyền được hưởng. Theo ý Đức Lêô XIII vấn đề ấy rất quan trọng. Vậy ta hãy tìm giải quyết vấn đề ấy bằng cách giải nghĩa và tùy theo sự cần, giảng giải rõ hơn những học thuyết và những huấn lệnh của ngài.

Trước Ta hãy nhắc qua, sự lầm lỗi nguy hiểm của những người nào mưu ý bãi bỏ giao kèo công lao, vì tưởng nó là bất công, để thay thế nó bằng giao kèo xã hội. Những người ấy phạm đến danh giá của Đức Tiên Giáo hoàng Leo XIII. Bức thông điệp “RN” không những công nhận giao kèo công lao là hợp lý, mà lại giảng giải những điều luật cần thiết cho nó thích hợp với công lý hơn.

  • Nhưng dầu sao để thích hợp với hoàn cảnh xã hội hiện tại, ta đề nghị bổ khuyết giao kèo công lao kia bằng những điều kiện ta có thể mượn lấy của giao kèo xã hội này. Điều ấy đã được áp dụng vào rất nhiều trường hợp khác nhau dưới nhiều hình thức khác nhau, mà gây lợi nhiều không những cho cần lao mà lại cho cả tư bản nữa. Tỉ dụ như công nhân và lao động đã được kêu mời tham gia vào sở hữu căn bản của công ty mướn họ. Họ tham gia vào hành chính và chia phần hoa lợi công ty của họ thâu góp được.
  • Đức Lêô XIII đã rất thích đáng nhắc lại rằng: “Ta không sao định số tiền lương phải chăng, theo một nhận xét duy nhất mà quên bỏ những nhận xét khác, có lẽ quan trọng hơn”. Ngài nói để định số tiền lương phải chăng, ta phải chú tâm đến đủ mọi phương diện. Như vậy, ngài đã kết án cho những người tự đắc giải quyết được vấn đề rất phức tạp này, theo một luật mực hay một tỉ lệ nhất định. Ngoài ra luật mực kia, tỉ lệ này hoàn toàn sai lầm.

Kẻ không chút ngần ngại theo thành kiến đã phổ biến hầu hết khắp nơi mà định giá công lao và việc trả công đúng theo hoa lợi nó gây nên, thì đều lầm to. Nhờ vậy họ kết luận rằng: Công nhân toàn quyền đòi tất cả hoa lợi bởi công việc họ gây nên thì hại lớn. Đọc lại những lời ta đã nói về những mối tương quan cần thiết giữa tư bản và cần lao, thì ai cũng đủ rõ.

*   Tính cách tư nhân và xã hội của cần lao.

Cần lao không kém tư bản, cũng có tính cách tư nhân và xã hội. Đó là một điều ta nên nhớ không bao giờ quên. Nhất là khi nói đến những công nhân làm mướn. Điều ấy thì quá hiển nhiên. Mọi cố gắng hành động chung của nhân loại, không thể nào kết quả được, nếu thiếu những điều kiện sau đây:

Xã hội phải có quy tắc, thành một tổ chức tinh xảo; trật tự và quy luật xã hội phải bảo đảm mọi cần lao. Những nghề nghiệp rất phức tạp đều liên hệ với nhau. Nên phải hòa nhịp và bổ khuyết nhau.

Nhờ một trí tuệ minh mẫn, cần lao và tư bản phải hòa hợp với nhau, trở thành một cơ quan hành động duy nhất.

Bởi thế ta không thể nào định giá công thợ cho hợp lý, và trả lương công nhân cho phải lẽ. Nếu ta coi thường hai tính cách tư nhân và xã hội của cần lao.

*   Ba điểm chính đáng quan trọng.

a).  Kế sinh nhai và gia đình người.

  • Vì hai tính cách tự nhiên của cần lao, ta có thể khấu trừ những nguyên tắc quan hệ về thể thức trả công và tỉ lệ phải chăng của nó.

Trước phải trả công thợ cho đủ sống và nuôi gia đình. Đã đành tất cả thân nhân của người thì cũng phải tùy sức góp phần vào việc cấp sự cần cho gia đình họ, như ta thường thấy ở hầu hết các gia đình nông dân, và rất nhiều gia đình công nhân hay thương nghiệp. Nhưng cấm ngặt không được bắt tuổi trẻ còn thơ dại, đàn bà nhu mì, làm việc quá sức. Các bà mẹ phải lo việc nhà, lo tề gia nội trợ hay các việc khác liên quan đến gia đình. Vì tiền lương gia trưởng thiếu, các bà mẹ phải lo việc giáo dục đàn con, và các bổn phận khác, mà (phải) đi tìm một sinh kế riêng, quả thật là một việc lộng hành đáng kết án nghiêm trị.

Vậy ta phải dùng đủ mọi phương tiện cho các gia trưởng lao động được trả công vừa đủ cho họ đảm nhận những phận sự chính đáng của họ đối với gia đình. Tình trạng xã hội kỹ nghệ hiện tại rất bất tiện, để hoàn tất phận vụ ấy. Nhưng công bằng xã hội bắt buộc ai nấy phải tận tâm với việc canh tân xã hội, cho mọi công nhân trưởng thành lĩnh được số lương cân xứng với địa vị của họ. Về phương diện ấy, ta thành thực tán tạ những người đã có nhã ý khôn ngoan và hữu ích, tìm trăm phương nghìn cách, hoặc để định giá công thợ theo những đòi hỏi của một gia đình hằng mở rộng thêm đông (nhờ vậy gia đình càng thêm đông, thì gia trưởng càng được tăng lương), hoặc là để cung cấp những sự cần bất thường do thời thế hoàn cảnh gây nên bất ngờ.

b).  Tình trạng thành bại của xí nghiệp.

  • Trong việc định giá công thợ, ta lại phải chú tâm đến tình trạng thành bại của xí nghiệp và những người phụ trách nữa. Đòi tăng lương mãi sẽ là một sự vô lý, trong những trường hợp xí nghiệp lâm nguy. Làm như vậy là đưa xí nghiệp đến bại hoại và khiến công nhân lại thất nghiệp nữa. Nhưng nếu xí nghiệp lâm nguy bại hoại vì ban quản trị uể oải và xao nhãng, hoa lợi sút kém vì kẻ phụ trách chẳng lo mở mang công việc về phương diện kinh tế và kỹ thuật, thì họ không thể nào hạ giá công thợ vì cớ phải cứu xí nghiệp. Đàng khác, nếu tài chính không đủ mà trả công phải chăng cho thợ thuyền, hoặc vì xí nghiệp phải nạp thuế quá nặng và vô lý, hoặc vì xí nghiệp gặp cản trở vô cớ nên phải bán sản phẩm hạ giá, thì những người nào bắt thuế kia hay làm cản trở này, đều vi phạm công lý và mắc phải tội không tha thứ được. Lý do là vì lỗi bất công của họ, công nhân không đòi được tiền lương phải chăng mà tự nhiên họ có quyền đòi, và nhiều khi vì bắt buộc họ phải nhận tiền lương quá hạ đối với phận sự họ gánh vác.

Bởi thế tất cả chủ nhân và công nhân phải đồng tâm nhất trí, tìm thắng vượt mọi sự khó khăn và mọi trở lực. Chính quyền lại phải giúp họ thành công dễ dàng, nhờ một chính thể khôn ngoan đắc lực ủng hộ họ. Nhỡ ra không ai thoát khỏi cơn khủng hoảng kinh tế này, thì họ phải nêu lên vấn đề giải tán xí nghiệp, và tìm cách khác bổ túc cho công nhân vô tội mà lại bị hại lớn. Trong trường hợp nghiêm trọng ấy, chủ nhân và công nhân phải đoàn kết chặt chẽ thân mật, và đồng tâm trong tình nghĩa phúc âm, thì mới hành động một cách hiệu nghiệm và kết quả.

c).  Những đòi hỏi của công ích.

  • Để định giá công thợ, ta phải tuân cứ những đòi hỏi của công ích nữa. Trên kia ta đã nhấn mạnh điều đó. Công nhân và lao động đủ tiền cấp sự cần khẩn thiết, và dành một phần lập tư sản vừa phải, thì lợi cho công ích biết bao! Nhưng còn một quan điểm nữa không kém quan trọng, mà ngày nay thật không ai bỏ phớt được. Ta có ý nói rằng: cần lao phải tổ chức trong nước làm sao cho tất cả mọi công dân làm việc được và muốn làm việc, thì tìm được công ăn việc làm cách dễ dàng. Tổ chức này phần lớn tùy thuộc tiền lương phải chăng công nhân lãnh nhận được. Nếu số tiền lương ấy hợp lẽ phải, thì nước sẽ không thiếu gì việc làm cho công nhân. Số tiền lương quá hạ, thì trái lại, công nhân không tìm đâu được cho có công ăn việc làm. Ngoài ra cũng không ai chối được, tiền lương hoặc quá cao, hoặc quá thấp cũng gây dịp cho một tệ đoan xã hội, thường gọi là nạn thất nghiệp. Tệ đoan xã hội ấy đời ta bây giờ thì phổ thông rất nhiều. Vì nó mà đa số công nhân bị thiệt, chìm đắm trong cảnh khốn cực, lại không ngừng mưu gian làm ác nữa. Họ khiến cả những dân nước phong phú phải bị tiêu diệt dần dần. Lúc nào họ cũng làm lung lay trật tự xã hội an ninh quốc gia và hòa bình thế giới. Cứ tăng gia hay giảm bớt công thợ vô lý nguyên vì lợi ích tư nhân, mà không quản gì đến công ích, là một sự vô lý mà lại phạm đến công bằng xã hội. Trái lại mọi người phải đồng tâm nhất trí để thiết lập một chính sách lương bổng cho công nhân vừa dễ tìm việc làm, vừa dễ thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của một đời sống xứng vị con người.
  • Muốn chóng được kết quả, ta còn phải dung hòa tiền lương của từng giai cấp công nhân, mà lại nhớ một điều mật thiết liên hệ với vấn đề ấy, tức là định giá phải chăng của một sản phẩm cần thiết và thuộc về đủ mọi chi nhánh kinh tế, canh nông, kỹ nghệ… những chỗ nào nền kinh tế được tổ chức cân bằng, thì chỗ ấy mọi hành động phức tạp của con người sẽ hòa nhịp và bổ khuyết nhau thành một cơ thể duy nhất, đủ bộ phận chuyên biệt nhưng thuận hòa nâng đỡ nhau. Cơ thể kinh tế xã hội chỉ hoàn bị, khi nó cấp đủ nhu cầu cho toàn dân và cho từng người, về phương diện canh nông và kỹ nghệ. Tổ chức xã hội kinh tế phải tìm những phương tiện cần thiết để đạt tới mục đích cần thiết ấy. Nhưng sản phẩm canh nông và kỹ nghệ sản xuất phải đủ, để cho các công dân sống xứng vị con người và vươn mình lên một địa vị sinh hoạt và văn hóa khả quan. Một đời sống đủ sự cần về vật chất nếu không có gì cản trở, sẽ rất thuận tiện cho mọi người đua nhau sống đạo đức và tiêu dùng tiền của cho khôn ngoan.

 6.   Phục hưng lại quy tắc xã hội.

  • Những điều ta giãi bày từ trước chỉ liên quan đến sự chia của phân công cho từng cá nhân cho hợp lý. Trực tiếp thì không liên quan gì tới quy tắc xã hội, mà Đức Lêô XIII đã tận tâm quyết phục hưng lại, theo đạo tự nhiên và nhất là theo đạo phúc âm tuyệt đối cao thượng. Để tăng cường cho phong trào ngài đã nêu lên, để hoàn tất công việc cần phải thực hiện, để giúp các gia đình hưởng lợi và hái hoa quả tốt đẹp do công việc ấy làm nẩy nở ra, thì ta phải chú tâm tới hai việc cần thiết này: thứ nhất là cải tạo mọi cơ cấu xã hội, thứ hai là cải thiện phong hóa mỹ thuật.

*   Cải tạo mọi cơ cấu xã hội.

a).  Phận sự chính phủ quốc gia.

Đã nêu lên vấn đề cải tạo mọi cơ cấu xã hội, tự nhiên ta phải nhắc đến phận sự chính phủ. Đã đành chính phủ can thiệp thì không chắc đã giải quyết vấn đề ấy một mình được. Nhưng từ khi cá nhân chủ nghĩa toàn thắng, các phong trào xã hội xưa kia đã lập ra bao nhiêu đoàn thể bảo vệ đời sống đủ mọi phạm vi một cách điều hòa và hiệu nghiệm. Trên mặt trận xã hội chỉ còn tư nhân và chính phủ tương tranh với nhau mà thôi. Chế độ xã hội bị thiên lệch; quốc gia chịu thiệt khôn xiết kể; các hội đoàn kia ngừng hoạt động. Chính phủ phải thay thế vào đó; nó phải cúi lưng dưới bao gánh nặng và bao trách nhiệm, nó không thể nào gánh lấy một mình.

Đành rằng lịch sử làm chứng, không ai hồ nghi được. Tình trạng xã hội đã biến đổi nhiều. Có bao nhiêu việc xưa kia các hội đoàn tư nhân phụ trách được, nhưng bây giờ chỉ những tổ chức cộng đồng rộng lớn mới đảm nhiệm nổi. Nhưng dầu sao có một nguyên tắc xã hội học rất quan trọng không thể thay đổi, và cũng không lay chuyển được: Có những trọng trách tư nhân đủ năng lực và phương cách gánh vác. Cất những trọng trách khỏi tư nhân và giao uỷ hết cho chính phủ là lỗi đến công bằng xã hội. Cùng một lẽ ấy, cất khỏi những hội đoàn tư nhân các trọng trách họ gánh vác được, mà trao lại cho những tổ chức cộng đồng vừa rộng rãi vừa cao lớn, là đảo lộn cả quy tắc xã hội, và gây bao thiệt hại cho quốc gia. Chính phủ can thiệp vào vấn đề xã hội, thì chỉ có quyền nâng đỡ công dân, chứ không có quyền chi phối hay phá hoại đời sống tự nhiên của họ.

  • Bởi thế cho nên, chính phủ phải nhường cho các hội đoàn tư nhân những phận sự họ đảm nhận được. Chính phủ chi phối những phận sự ấy thì làm sao lãng những việc quan trọng chính quyền phải đảm nhiệm. Hay hơn là nhường cho công dân những công việc, công dân làm được, để hoàn tất những công việc chỉ có chính phủ mới làm được một cách tự do mạnh mẽ hiệu nghiệm hơn. Tức là chỉ huy, kiểm soát, thúc đẩy hay thắng hãm những hành động dân sự, tùy theo hoàn cảnh thời thế bắt buộc. Nhưng nhà cầm quyền nên tin chắc rằng: quy tắc xã hội càng hoàn hảo, các hội đoàn càng làm việc theo đúng phận sự bổ túc chính phủ, thì chính phủ càng mạnh quyền và càng được uy tín, rồi mọi công vụ càng dễ tiến triển và gây hạnh phúc hơn.

b).  Cộng tác riêng của các liên đoàn công nghệ.

  • Vật đích đầu tiên chính phủ và các công dân ưu tú cần phải theo đuổi là tận tâm chấm dứt những sự tương tranh giữa các giai cấp xã hội, và luôn luôn cố gắng gây nên, cùng thúc đẩy tinh thần đoàn kết chặt chẽ thân mật giữa các nhà chuyên nghiệp.

Cho nên chính sách xã hội phải chân thực tu bổ lại các liên đoàn công nghệ.

Quả thực tình trạng xã hội hiện là tình trạng căng thẳng, nên bấp bênh và hằng lung lay. Lý do là vì xã hội căn cứ vào các giai cấp đầy những tham vọng và những căm hờn kình địch nhau, nên lúc nào chiến tranh cũng có thể bùng nổ bất ngờ. Nghiệm như lời Đức Tiên Giáo hoàng đã nói, cần lao không phải là đồ mua bán. Nó thông phần nhân cách của công nhân. Người ta không thể nào đổi việc làm lấy tiền lương, theo lối thị trường. Nhưng dầu sao, đời ta bây giờ luật “cung cầu” cũng được áp dụng vào cần lao, nên xã hội bị chia thành hai giai cấp, thành hai phe: kẻ mướn thợ và kẻ làm mướn. Cuộc bàn tán giữa đôi bên, mở rộng như một bãi chiến trường cho kẻ thù địch kịch liệt đánh nhau. Thật là một cảnh lộn xộn đưa xã hội đến bại hoại. Nên ai cũng thấy rõ, phải tìm một giải pháp thượng khẩn và hiệu nghiệm. Vậy không có giải pháp nào hiệu nghiệm để chữa hẳn tệ đoan kinh khủng này, bằng cách cải hóa hai giai cấp tương tranh kia, thành những tổ chức chuyên nghiệp hoàn bị. Các công nhân nhập vào những tổ chức ấy, sẽ không còn được nhận hay bị từ chối, tùy theo địa vị của họ đối với nền cần lao, bèn là tùy theo những hành động xã hội, họ tự nhiên phải tham gia. Tỉ dụ như những người cùng một khu vực, thường kết thành một thị xã thể nào, thì những người cùng một công nghệ hay cùng một chức nghiệp tự nhiên cũng hướng về cùng một tổ chức chuyên nghiệp thể ấy. Đó là một xu hướng hiển nhiên, đến nỗi các nhà xã hội học thường cho là những cơ quan có lẽ không thiết yếu, nhưng ít nhất cần thiết của xã hội.

  • Thánh TÔMA nói: Trật tự vốn nảy ra bởi những yếu tố khác nhau, nhưng xếp đặt điều hòa theo một nguyên tắc duy nhất. Vậy tất cả mọi công dân là yếu tố của xã hội được hiệp lại với nhau theo một nguyên tắc duy nhất, thì xã hội mới có quy tắc tuyệt đẹp. Nguyên tắc duy nhất đó, là tăng gia sản xuất mỗi người theo nghề nghiệp riêng, hay là một lòng phụng sự cởi mở thành thực, nhất thống mọi hành động riêng của các chủ nhân và công nhân. Hay nói rộng ra, về đủ mọi chức nghiệp, nguyên tắc ấy sẽ là công ích, mà tất cả mọi chức nghiệp phải gây dựng theo năng lực riêng và bằng những minh phối đủ mọi hành động của chúng. Sự minh phối này sẽ càng tăng cường và càng hiệu nghiệm, thì tư nhân và các chức nghiệp sẽ càng trung thành và tiến triển hơn trong phạm vi chuyên biệt của họ.

Suy đến những điều nói trên ta phải kết luận rằng: những liên công nghệ kia, đối nội thì phải đề cao ích lợi chung của từng công nghệ trên hết. Những đối ngoại, quan trọng nhất là liệu thể nào cho những hành động chung luôn luôn quy về công ích quốc gia. Còn những vấn đề do ích lợi riêng của từng chuyên nghệp gây nên, nhất là những vấn đề thuộc về lợi ích của các chủ nhân hay lợi ích của các công nhân; tỉ dụ như lúc bên này phải đề phòng khỏi bị bên kia lạm dụng hay làm hại, thì bên nào bên nấy sẽ bàn luận riêng để tìm giải pháp cho từng vấn đề một.

  • Ta cần gì phải nhắc lại những huấn dụ của Đức Lêô XIII về các chính thể. Ai cũng còn nhớ. Vậy những huấn dụ đó ta rất có thể áp dụng vào những liên đoàn công nghệ, phải lập ra trong đủ mọi chi nhánh chuyên biệt. Ta nói: có thể áp dụng, vì phạm vi xã hội có phần nào giống nhưng cũng có phần khác hẳn phạm vi chính trị. Ý Ta rằng: trong phạm vi chuyên nghiệp cũng như trong phạm vi chính trị, dân chúng có quyền tự do nhận chính thể này hay chính thể khác, miễn là mọi đòi hỏi công bằng và công ích được tuân giữ, tôn trọng.

Những dân cư cùng một thành thị, quyết theo đuổi một mục đích chung, thì đã có thói quen lập những hội đoàn thích hợp với mục đích ấy. Rồi ai cũng tự do nhập hội hay đứng ở ngoài tùy ý. Vậy những người cùng một chuyên nghiệp cũng thế. Họ có quyền tự do hội họp, để thực hành những công việc liên hệ với chuyên nghiệp của họ. Đức Tiên Giáo hoàng đã diễn tả một cách tuyệt bút, rõ rệt và tỉ mỉ, những hội đoàn ấy phải tổ chức như thế nào. Ta chỉ cần nhấn mạnh thêm vào một điều rất quan trọng: loài người ai nấy cũng tự do lập hội tư nhân, và tổ chức nội quy hay định luật tùy theo mục đích riêng của từng đoàn. Vậy quyền tự do lập hội trong một chi nhánh chuyên nghiệp gồm cả quyền lập những liên hội mở rộng cho những nghề nghiệp khác nhau. Mong những hội đoàn tư nhân đã được thiết lập và đang kết quả tốt đẹp, mở đường cho những liên đoàn ta mới nhắc đến và căn cứ vào những nguyên tắc xã hội học công giáo, tận tâm hiệp lực lập ra càng sớm càng hay.

*   Đề cao một nguyên tắc chính đáng chỉ dẫn được mọi hành động kinh tế.

  • Còn một việc khẩn cấp nữa, cũng liên hệ với những việc kể trên: xã hội không thể nào xây dựng được trên nền tảng giai cấp tương tranh. Cùng một lẽ ấy, nền kinh tế không thể nào bền vững trên luật tự do cạnh tranh. Tất cả mọi lầm lỗi của kinh tế cá nhân học khoa, từ ở nguồn gốc ấy mà ra, là một ảo tưởng. Kinh tế học khoa này, vì quên bỏ hay chưa biết tính cách xã hội và luân lý của kinh tế, đã lầm tưởng rằng: chính quyền phải bỏ mặc kinh tế phát triển theo luật riêng của nó, mà không bao giờ can thiệp cưỡng bách bất cứ bằng cách nào. Luật cung cầu hay tự do cạnh tranh, là một điều luật vững chắc chỉ dẫn kinh tế mạnh mẽ hơn trí tuệ minh mẫn của bất cứ ai. Áp dụng luật tự do cạnh tranh một cách điều độ phải chăng, thật là một sự hợp lý và hữu ích. Nhưng luật ấy không sao làm luật mực căn bản cho một nền kinh tế công bằng. Những biến cố đã xảy ra, từ khi thế giới tuân theo chủ nghĩa cá nhân thiệt hại đó, chứng minh điều ấy quá rõ rệt. Thành ra, không việc gì khẩn cấp cho bằng lập lại cả nền kinh tế trên một nguyên tắc công bằng và hiệu nghiệm hơn. Luật kinh tế độc tài vừa mới thay thế luật kinh tế cá nhân, cũng không thể nào đóng vai chính này được. Luật kinh tế độc tài, tự nhiên vô độ và cường bạo. Muốn gây lợi ích cho nhân loại, nó phải tìm sẵn một ngoại cương, và một năng lực chỉ huy, tự nhiên nó không có. Vậy, để nghiêm ngặt chỉ huy những lực lượng kinh tế vô độ này, ta phải đề cao những nguyên tắc cao quý hơn, tức nguyên tắc công bằng và bác ái xã hội. Công bằng xã hội phải tẩm nhiễm tận gốc mọi cơ cấu xã hội và đời sống xã hội nhân quần. Bằng chứng rõ ràng nó có hiệu nghiệm và ảnh hưởng sâu rộng, là nó tạo ra một quy tắc pháp luật và xã hội thấm nhập luôn cả nền kinh tế.
  • Còn bác ái xã hội phải nên như hồn sống của xã tắc, do chính quyền lập ra bênh vực và bảo vệ đắc lực. Chính quyền càng nhường cho kẻ khác những việc không phải là việc riêng mình, thì càng thuận bề dễ dàng làm trọn phận sự tối hệ này.

Còn một điều đáng ghi nhớ: về phương diện kinh tế, các dân nước hỗ tương, tùy thuộc và liên kết mật thiết với nhau. Nên họ phải trao đổi ý kiến và tận tâm hiệp lực với nhau để nhờ những giao kèo và những cơ cấu khôn ngoan, mà gây dựng một nền công tác giao dịch hữu ích có lợi nhiều trong phạm vi kinh tế vạn quốc.

Vậy tu bổ lại mọi thành phần của cơ thể xã hội, phục hưng lại trong phạm vi kinh tế một nguyên tắc chỉ huy công bằng, thì tổ chức xã hội sẽ lại hoàn bị, và đáng được ta áp dụng vào nó những lời vàng ngọc Thánh Phaolô đã nói riêng về nhiệm thể Chúa Kitô rằng: “Nguyện xin Người chiếu theo nguồn vinh hiển phong phú Người mà ban cho anh chị em dũng lực của Chúa Thánh Linh, để anh chị em đủ sức cải hóa lòng trí theo ý Chúa.

Mới đây ai cũng thấy xuất hiện một tổ chức đặc biệt vừa có tư cách nghiệp đoàn, vừa có tư cách hợp tác xã. Vì tổ chức ấy có liên hệ với mục đích bức thông điệp này, nên thiết tưởng ta phải nhắc đến và thêm một vài nhận xét thích nghi.

Chính phủ công nhận tổ chức nghiệp đoàn ấy, là một tổ chức hợp pháp. Nhờ đó tổ chức nghiệp đoàn này hầu như độc quyền, để đại diện các chủ nhân và công nhân: để ký kết những giao kèo hay những điều ước chung về đủ mọi vấn đề cần lao. Ai muốn thì tùy ý gia nhập hay đứng ở ngoài nghiệp đoàn cũng được. Về đàng ấy nói được, nghiệp đoàn này là một tổ chức tự do. Vì, về đàng khác, nó có tư cách bắt buộc. Các nhân viên đủ mọi chuyên nghiệp, thoạt khi đã nhập vào thì phải nộp tiền nguyệt liễm. Họ cũng bắt buộc chịu đủ mọi đảm phụ đặc biệt bất cứ họ là chủ nhân hay là công nhân. Hơn thế nữa, mọi giao kèo cần lao nghiệp đoàn ký kết, cũng buộc chung tất cả các nhân viên. Dầu sao ta cũng nhận thực, đã có lời công nhiên tuyên bố rằng: nghiệp đoàn pháp lý này không bãi bỏ những công đoàn đã có sẵn.

  • Các nghiệp hội nhập vào tổ chức ấy, kết tinh nên bởi những đại diện nghiệp đoàn chủ nhân hay công nhân, cùng một chức nghiệp hay một công nghệ. Họ được chứng nhận là những cơ quan hay những cơ cấu của chính phủ, để điều khiển và minh phối những hành động riêng của từng nghiệp đoàn khi những hành động ấy liên hệ tới những lợi ích chung. Các cuộc đình công hay đồng giải công đều cấm ngặt. Các nhân viên xích mích điều gì không sao đồng ý được, thì ban chấp hành nghiệp đoàn can thiệp và toàn quyền giải quyết vấn đề.

Một tổ chức như vậy, dầu ta chỉ diễn tả sơ qua, cũng đủ rõ là một tổ chức có ích lợi nhiều. Những điểm chính là: cộng tác điều hòa giữa các giai cấp, những hành động và tổ chức của chủ nghĩa xã hội được loại bỏ; quyền chỉ huy êm đẹp của một ban chấp hành chuyên biệt.

Nhưng đã nêu lên một vấn đề quan trọng thể ấy, ta nên căn cứ vào những nguyên tắc kể trên, và những nguyên tắc kèm theo sau, mà nhận rằng: không thiếu người có thiện chí lo ngại, vì sợ chính quyền vùi lấp những sáng kiến tư nhân, thay cho cứ đứng ở ngoài bênh vực và ủng hộ đắc lực. Người ta lại e rằng: tổ chức ấy dần dần sẽ hóa nên một tổ chức viên chức chính trị. Dầu nó hữu ích nhiều như ta vừa mới nói, nó rất có thể sai mục đích mà phụng sự những chủ nghĩa chính trị riêng biệt, thay vì thành tâm gây dựng một đời sống xã hội điều hòa hơn.

  • Ngoài ra theo thiển ý của ta, để gây dựng một đời sống xã hội điều hòa đáng mong thể ấy, và gây lợi ích chung của cộng đồng xã hội; trước hết và trên hết ta cần phải có ơn Chúa ban dồi dào rồi mới cần đến sự hợp tác chặt chẽ của tất cả mọi người còn thiện chí. Vật đích cao siêu ta đang nêu khởi, cũng phải có sự cộng tác của những người chuyên môn về kỹ thuật, chuyên nghiệp về xã hội, và hơn thế nữa, phải căn cứ vào học thuyết và những thực hành của Thiên Chúa giáo, không phải do công giáo tiến hành thân hành chỉ huy: (công giáo tiến hành không trực tiếp tham gia vào những hành động nghiệp đoàn hày chính trị) bèn là do những người đã được công giáo tiến hành huấn luyện theo những nguyên tắc xã hội công giáo, bởi vậy đã sẵn sàng trở nên những cán bộ thực hành và truyền bá học thuyết xã hội ấy, dưới quyền chỉ dẫn của Giáo hội. Phải, Giáo hội trong phạm vi kinh tế xã hội ta mới diễn tả, cũng như trong đủ mọi phạm vi đời sống liên hệ với luân lý, cũng không thể nào quên nhãng hay bỏ phớt qua sứ mạng gìn giữ và rao giảng chân lý Thiên Chúa đã uỷ cho. Nhất là lúc các vấn đề luân lý được nêu lên và được giải quyết.
  • 65. Phục hưng lại nền phong hóa mỹ tục.

Ngoài ra những điều ta mới nhắc lại về việc tu bổ và hoàn tất quy tắc xã hội, sẽ không bao giờ thực hiện được, nếu ta không phục hưng lại nền thuần phong mỹ tục. Điều ấy lịch sử cũng chứng minh không ai từ chối được. Xưa kia đã có một xã tắc, dầu không hoàn bị, nhưng cũng thích hợp với thời thế hoàn cảnh và những nguyên tắc của đạo lý tự nhiên. Xã tắc ấy đã biến mất từ lâu. Không phải vì nó không đủ sức biến hóa cho thích hợp với những hoàn cảnh và những nhu cầu mới đâu. Lý do chính hoặc là vì con người theo tính vị kỷ cứng cỏi không chịu mở cửa cho số người ngày càng thêm đông, tình nguyện xin gia nhập vào tổ chức của họ; hoặc là vì loài người bị những lý thuyết tự do quyến rũ làm mê ảo, hay những tà thuyết khác, khiến họ trục xuất mọi xã tắc, không còn chịu tùng phục bất cứ quyền bính nào nữa.

Vậy ta chỉ còn một điều cần giải bày nữa, diễn tả chế độ kinh tế hiện tại, và chủ nghĩa xã hội mà ta không ngừng phi bác nó. Rồi luận xét đôi bên theo công lý. Đã khám phá ra lý do của mọi tệ đoan hiện tại, thì ta sẽ đề nghị phương dược cần thiết nhất và hiệu lực nhất, tức là cải tạo phong tục.

IV. Những biến cố lớn đã xảy ra từ thời Đức Lêô XIII

*   1. Nền kinh tế biến chuyển

  • Kể từ Đức Lêô cho đến bây giờ, nền kinh tế và chủ nghĩa xã hội đã biến đổi tận cội rễ.

Nền kinh tế đã biến đổi là một hiện tượng lịch sử quá hiển nhiên. Anh em thừa biết chế độ kinh tế mà Đức Tiên Giáo hoàng đáng ghi nhớ trong bức thông điệp RN, đã có kiến thức hơn hết là chế độ tư bản và cần lao bổ khuyết nhau: người thì xuất vốn, người thì làm công. Ngài nói rất đúng rằng: tư bản không cần lao, cần lao thiếu tư bản, thì cả hai cũng không thể nào có được.

Chế độ tư bản vốn tính không hư ác, nhưng đã hư hỏng nhiều. Chế độ ấy được Đức Lêô XIII hết sức tìm tu bổ lại theo công lý. Tự nhiên nó không đáng kết án đâu. Nó hư ác không phải vì nguyên tắc căn bản. Nó hư đi dần dần, vì người tư bản mướn thợ thuyền để xí nghiệp và chế độ kinh tế gây lợi ích riêng, nên họ không quản gì đến nhân cách của công nhân, tính cách xã hội của cần lao, và những đòi hỏi của công bằng và công ích. Đó là phạm đến quy tắc tự nhiên của xã hội.

Đành rằng, hiện nay chế độ ấy không được thực hiện noi theo ở khắp mọi nơi. Hiện có một chế độ khác nữa hấp dẫn một phần quan trọng nói được là phần đa số của nhân loại. Tỉ dụ như trong giới canh nông, biết bao người còn sinh sống nguyên vì những công việc liêm chính xứng đáng. Những chế độ kinh tế ấy cũng không thiếu sự trắc trở đáng lo Đức Tiên Giáo hoàng đã nhắc đến, và chính ta cũng đã lược qua trong thư này.

Nhưng từ khi bức thông điệp của Đức Lêô XIII được phát hành, vì thế giới được kỹ nghệ hóa nhiều, thì chế độ tư bản ngày càng ảnh hưởng sâu rộng. Nó dần dần xâm chiếm và ăn sâu vào tình trạng kinh tế xã hội hiện tại. Cả những người đứng ở ngoài cũng thụ hưởng nhiều, thụ hưởng cả phần ích và phần họa của nó nữa. Thành ra nó ghi khắc vào thế giới ngày nay, những tính cách riêng của nó.

Vì thế lược thảo những biến cố lớn đã xảy ra từ đời Đức Lêô XIII đến bây giờ không những là giúp ích cho những người thụ hưởng đại kỹ nghệ mới và chế độ tư bản mà thôi, mà lại mưu ích cho cả nhân loại nữa.

*   Nền Kinh tế độc tài nhường chỗ cho chủ nghĩa tự do cạnh tranh.

  • Đặc điểm của đời ta bây giờ không phải chỉ là sự tập trung những quyền hành mạnh lớn, thành một quyền kinh tế trong tay một số ít người, không phải là chủ nhân, mà chỉ là thụ thác hay quản lý, tùy ý sử dụng.

Chuyên quyền ấy mạnh nhất ở những người tích trữ và độc tài cầm giữ tiền bạc. Số tiền được thu lại, họ vừa định cách dùng, vừa phân phát hoàn toàn theo ý muốn. Nhờ đó trong cơ thể kinh tế, họ là quả tim phát máu, họ là nguồn sống còn. Không được họ đồng ý, không ai còn thở được.

Chuyên quyền kinh tế và tài chánh tập trung trong tay một số ít người như thế, là đặc điểm nền kinh tế xã hội hiện tại. Nó là kết quả tự nhiên của một chủ nghĩa cạnh tranh hoàn toàn tự do, không có chừng hạn. Kẻ mạnh quyền đứng vững, còn kẻ khác đều ngã thua. Kẻ mạnh quyền sự thường là những ai? Thưa sự thường là những người vô lương tâm, và tranh đấu luôn bằng võ lực, tâm lý.

Bài này đã được xem 1005 lần!

Pages ( 8 of 16 ): <1 ... 67 8 910 ... 16>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]