CÁC THÔNG ĐIỆP XÃ HỘI

Chuyên quyền kinh tế và tài chánh, tự nhiên thúc đẩy kẻ cầm nó trong tay, mưu đồ cướp luôn cả chính quyền, theo ba giai đoạn: thứ nhất là họ lo sao cho được độc quyền về kinh tế. Thứ hai họ nhảy vào chiến trường chính trị. Đã lấy chính quyền rồi, họ mới dùng những thủ đoạn và sức mạnh của nó để tiếp tục tranh đấu trong phạm vi kinh tế. Thứ ba là sự tranh đấu dữ dội ấy chuyển sang phạm vi quốc tế: hoặc các chính phủ dùng quyền và góp sức với nhau để mở mang nguồn lợi kinh tế của những người thuộc thẩm quyền của họ, hoặc chính phủ tự đắc họ mạnh sức rộng quyền về kinh tế để giải quyết mọi vấn đề chính trị, theo lợi ích riêng của họ.

*   Hậu quả khốc hại.

  • Những hậu quả khốc hại do chủ nghĩa cá nhân áp dụng và kinh tế đã gây nên, thì anh em thừa biết và không ngừng cảnh cáo: chế độ tự do cạnh tranh đã tự tiêu, thay thế nó bây giờ chế độ kinh tế độc tài mới xuất hiện. Trước đây người ta chỉ tham lợi, bây giờ họ lại tham quyền. Đời sống kinh tế đã trở nên hung ác, vô tình, cứng cỏi thật là kinh khủng. Lại thêm vào đó những phận sự riêng của chính quyền, đều lẫn lộn với những hành động kinh tế. Nguy nhất là chính quyền suy đồi. Thay cho trị dân một cách cao thượng, vô vị lợi và khách quan theo những đòi hỏi của công ích và công bằng; các chính phủ chỉ còn là nô lệ, là khí cụ vô ý thức phụng sự mọi dục tình và mọi tham vọng của Tư Lợi. trong phạm vi quốc tế, thì từ ở nguồn duy nhất này lại chia ra hai dòng khác nhau: trước là chủ nghĩa chủng tộc quốc gia, hay chủ nghĩa kinh tế độc tài; sau (cũng đáng ghét và thiệt hại lớn) là chủ nghĩa quốc tế, hay chủ nghĩa tiền bạc quốc tế độc tài. Tức là, chỗ nào có lợi, chỗ ấy mới là quê tôi.

*   Phương dược hiệu nghiệm để chữa tệ đoan.

  • Ta nên chữa tệ đoan kinh khủng này bằng những phương dược nào? Trong phần thứ hai bức thông điệp này, ta đã chỉ dạy rõ ràng. Ta chỉ cần nhắc lại những điểm chính sau đây: chế độ kinh tế hiện tại căn cứ vào tư bản và cần lao. Vậy ta hãy áp dụng vào hai yếu tố căn bản ấy, những nguyên tắc lý trí và xã hội học công giáo. Nhận thực và thực hành những nguyên tắc tắc ấy vào sự cộng tác giữa cần lao và tư bản, thì mới giải quyết vấn đề theo công lý. Không muốn vấp phải hoặc vào cá nhân chủ nghĩa, hoặc vào chủ nghĩa xã hội, ta lại phải đề cập hai tính cách cá nhân và xã hội của tư bản và của cần lao. Tư bản phải đối đãi với cần lao và cần lao phải đối đãi với tư bản theo đúng luật công bằng giao hoán, nhờ đức bái ái của Chúa Kitô bổ khuyết không ngừng. Chế độ tự do cạnh tranh lại phải thực hành trong những chừng hạn của công lý. Chuyên quyền kinh tế lại phải thân thiết tùng phục chính quyền trong đủ mọi phạm vi chính quyền phải can thiệp. Sau hết các cơ cấu của từng xã hội quốc gia, phải cải hóa mọi sự giao dịch giữa nhân loại, theo những đòi hỏi của công ích, tức là công bằng xã hội. Nhờ vậy nền kinh tế rất quan trọng trong đời sống xã hội sẽ quay về với sự chính trực và thế quân bình tự nhiên của xã tắc.

2. Những biến chuyển của chủ nghĩa xã hội.

  • Chủ nghĩa xã hội, mà Đức Lêô XIII đã nhắm đến trong bức thông điệp RN cũng biến chuyển nhiều. Nói được là không kém chế độ kinh tế. Đời Đức Tiên Giáo hoàng, chủ nghĩa xã hội còn thống nhất. Về phần học thuyết nó rất rõ ràng, về phần tổ chức nó thành một cơ thể duy nhất. Nhưng từ đó, nó đã chia làm hai phe, không những tương phản nhau mà nhiều khi lại kình địch nhau kịch liệt. Nhưng phe nào, cũng giữ tư cách phản giáo mà chủ nghĩa ấy có sẵn ngay từ đầu.

a).  Phe quá khích hay là cộng sản.

Phe thứ nhất cũng thuộc về chủ nghĩa xã hội đã biến chuyển luôn với chế độ kinh tế tư bản, mà quy về cộng sản. Cộng sản trong lý thuyết cũng như trong thực hành, không những ngấm ngầm mà lại công khai, không những theo một đường lối quanh co, mà lại theo một đường lối thẳng băng, bằng những phương pháp hiệu lực kể luôn cả võ khí, để quyết theo đuổi và đạt tới hai vật đích rõ ràng:

Gây sự giai cấp tương tranh kịch liệt, bài trừ mọi quyền sở hữu. Nó quyết đấu tranh cho đến khi đạt chiến thắng. Không có việc gì nó không dám làm. Không có sự gì nó kính trọng. Chỗ nào nó đã chiếm lấy chính quyền, nó tỏ mình là dã man và vô nhân đạo đến cực độ. Ai chưa thấy thì không dám tin. Những việc nó làm toàn là những việc kỳ khôi kinh khủng. Những sự bách hại, những bại hoại nó đã chồng chất ở miền đông Âu Châu và ở miền Viễn đông, chứng tỏ điều ấy rõ ràng. Kinh nghiệm hằng ngày, như ai cũng thừa biết, cũng làm chứng cộng sản là kẻ thù địch của Giáo hội và Thiên Chúa nữa. Thiết tưởng ta không cần nói dài về tính cách vô nhân đạo và bất công của cộng sản, cho các tín hữu của Giáo hội ý thức. Nhưng ta rất ưu sầu khi thấy kẻ cầm quyền vô tư lự, hầu như cứ khinh thường một tai họa lớn như thế và cứ thụ động chẳng làm gì để ngăn cản những tà thuyết cộng sản truyền bá khắp nơi, và những việc hung ác sát nhân nó thường dùng toàn là những sự ghê tởm đưa xã hội đến bại hoại. Nhưng đáng kết án hơn cả là những người biếng nhác thụ động, không bài trừ hay cải hóa những tình trạng bất công làm cho đại chúng tức tối cực điểm, và như vậy cứ mở đường cho đảo lộn và phá hoại cả xã hội.

b).  Phe điều độ, còn giữ tên chủ nghĩa xã hội.

  • Phe còn giữ tên là chủ nghĩa xã hội, thì quả thật nó điều độ hơn. Nó nhất định không dùng võ lực. Nhưng sự thường nó không loại ra hẳn hai vật đích cộng sản hằng theo đuổi, tức là sự giai cấp tương tranh và sự bãi bỏ quyền sở hữu. Hai vật đích đó, chủ nghĩa xã hội cũng theo đuổi, nhưng một cách điều độ và êm dịu hơn.

Hơn thế nữa, hầu như chủ nghĩa xã hội vừa khiếp sợ những nguyên tắc nó khởi xướng, vì kinh khủng vì cộng sản áp dụng những nguyên tắc ấy một cách quá hung bạo, nên nó dần dần thiên về học thuyết xã hội công giáo, và càng ngày càng bước đến gần.

Ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy rất nhiều đòi hỏi của chủ nghĩa xã hội thật giống như những yêu cầu chân chính của những người tận tâm tìm cải hóa xã hội theo học thuyết công giáo.

Về hai vật đích cộng sản theo đuổi, nó điều độ và êm dịu hơn. Các giai cấp tương tranh mà bỏ óc kình địch và oán giận nhau, tất nhiên sẽ quay về việc tranh luận tử tế, tìm phân công chia lợi cho công bằng. Việc ấy chưa nói được là hòa bình và hạnh phúc xã hội ai cũng mong ước, nhưng dầu sao cũng là một bước đầu tiên trên đường đưa tới sự cộng tác giữa các chuyên nghiệp.

Kẻ quyết bài trừ quyền tư hữu, cũng bớt phần hung hăng. Họ không còn đòi giữ các khí cụ sản xuất độc quyền nữa, một chỉ đòi lại cho xã hội quyền ưu tiên mà phe tư bản đã cướp lấy và dành riêng một cách vô lý. Quả thật quyền ưu tiên đó không phải là của tư bản, mà bèn là của chính quyền. Cứ mãi như vậy, chắc có ngày chủ nghĩa xã hội điều độ này sẽ không khác chủ nghĩa xã hội công giáo bao nhiêu. Ta phải nhận thực rằng có những thứ của cải phải dành cho cộng đồng xã hội, vì những của cải ấy ban cho chủ nhân một chuyên quyền kinh tế mạnh. Vì nó gây nguy cho công ích, thì không nên cho chủ nhân cầm trong tay.

Những yêu cầu và những khiếu nại ấy, thích hợp với công lý, không có điều gì trái ngược với chủ nghĩa chân chính của công giáo, nhưng cũng không nói được là quan điểm riêng của chủ nghĩa xã hội. Những kẻ không đòi hỏi điều gì khác, thì thật là không có lý do nào mà nhập vào phe xã hội.

Đàng khác anh em chớ lầm tưởng các phe đảng không cộng sản, nhưng cũng tuyên xưng chủ nghĩa xã hội, đều biên ghi điều ấy trong chương trình riêng, hay đều đồng ý thực hiện điều ấy trong hành động của họ. Nói rộng ra, các phe đảng ấy chỉ đồng ý về một điểm không bài trừ sự giai cấp tương tranh và quyền tư hữu, mà chỉ làm cách nào cho hai điều đó bớt phần thiệt hại thôi.

Có cách nào giải hòa với chủ nghĩa xã hội chăng?

  • Vì vậy chỗ nọ chỗ kia cũng có người quyết đoán một cách vô lý hay nêu lên vấn đề rằng: những nguyên tắc chủ nghĩa xã hội đã êm dịu đi mà biến dần, thì chủ nghĩa xã hội công giáo cũng phải biến dần cho điều độ hơn, để có thể đón tiếp chủ nghĩa xã hội trên một đường lối chung trung bình hơn, thật không thiếu gì những kitô hữu lầm tưởng như vậy. Họ tưởng hấp dẫn được phe xã hội về với họ, nhưng uổng công. Ai muốn làm tông đồ ngay giữa các đảng viên chủ nghĩa xã hội thì phải đề cao và truyền bá chân lý của đạo công giáo công khai đầy đủ vẹn toàn, không khi nào thiện cảm với tà thuyết nào. Nếu họ thành thực tuyên xưng đạo phúc âm, thì trước hết họ phải trình bày cho các đảng viên chủ nghĩa xã hội rằng: Những khiếu nại của họ càng thích hợp với công lý thì càng được đức tin công giáo bảo vệ mạnh mẽ, và càng chắc được chủ nghĩa bác ái của đạo công giáo thêm sức nhiệm cho họ được thỏa mãn trong thực hành.

Về hai mục đích: giai cấp tương tranh và bài trừ quyền tư hữu, chủ nghĩa xã hội đã biến dần và êm dịu đi. Nhưng ta đâu có nói được rằng về hai vật đích ấy chủ nghĩa xã hội không còn đáng trách điều gì. Chủ nghĩa ấy đã bỏ óc phản tôn giáo Chúa Kitô chưa? Đó là vấn đề khiến bao tín hữu kitô còn ngần ngại.

  • Bao tín hữu nhận thức rằng: họ không sao loại ra hay bãi bỏ những nguyên tắc xã hội của đạo công giáo. Nên họ đưa mắt nhìn về tòa thánh tha thiết thỉnh cầu ta giải quyết vấn đề cho họ biết rõ. Chủ nghĩa xã hội đã cải tà quy chính, thì đã đủ thành thực cho các tín hữu trung thành với học thuyết xã hội công giáo được nhập đảng họ chưa? Ta chiều theo tình cha con không muốn cho họ nóng ruột đợi chờ. Nên ta quyết định như sau: chủ nghĩa xã hội bất phân phạm vi học thuyết, lịch sử hay thực hành, dầu đã quay về với chân lý và công bằng một phần nào, như ta vừa mới nói. Nhưng cũng không thể được đồng nhất với học thuyết xã hội công giáo, vì quan niệm xã hội của nó trái nghịch với quan niệm công giáo một trăm phần trăm.

Về quan niệm xã hội nói chung, quan niệm tư cách xã hội của con người nói riêng; chủ nghĩa xã hội trái hẳn với công giáo.

Theo quan niệm công giáo, con người có tư cách xã hội mà lại được sống ở dưới thế, cứu cánh là phải sống trong xã hội dưới quyền tối cao của Thiên Chúa, là phương pháp đào tạo và phát triển đủ mọi tài năng hồn xác của mình, để tán tạ và làm vinh danh Đấng dựng nên mình, rồi tận tâm với nghề nghiệp và sứ mệnh riêng, hầu cho được hưởng phúc đời này và đời sau. Chủ nghĩa xã hội thì khác hẳn. Nó không biết gì đến cứu cánh cao thượng ấy là cứu cánh của tư nhân và xã hội. Nó đặt cứu cánh cộng đồng nhân quần, ở chỗ gây dựng các điều kiện cần thiết cho ai nấy cũng được khoan khoái thảnh thơi.

  • Một nhận xét: cần lao tổ chức cho mọi người cộng tác vào, theo tài theo sức, thì hiệu lực hơn là bỏ mặc từng người làm việc lẻ tẻ. Vậy chủ nghĩa xã hội căn cứ vào đó mà kết luận rằng: mọi hành động kinh tế cần phải quốc hữu hóa, mà đặt dưới quyền chỉ huy của xã hội, nhất là về phương diện vật chất: vì theo ý họ đó là mục đích duy nhất của nền kinh tế, và là một sự cần thiết. Nên theo chủ nghĩa xã hội, về đủ mọi việc có liên quan với sự sản xuất, thì mỗi một tư nhân phải đặt mình trong tay xã hội và quyết tòng phục.

Hơn thế nữa, phải chiếm hữu những tài sản rộng lớn gồm đủ mọi phúc lợi đời sống có thể gây ra được. Điểm ấy tối quan trọng nên con người phải hy sinh những của quý hơn là của phần hồn, kể luôn quyền tự do để hiến toàn thân lệ thuộc một tổ chức sản xuất khổng lồ và hợp lý trí hơn.

Tổ chức xã hội sản xuất này, phạm đến phẩm cách đặc biệt của tư nhân. Nhưng phần thiệt hại này đối với những phúc lợi đủ thứ, mà xã hội sản xuất và phân phát cho tư nhân, cũng chẳng thấm vào đâu. Tư nhân áp dụng những phúc lợi do xã hội, gây nên cho nhu cầu và sở thích riêng thì sung sướng biết bao.

  • Lý tưởng xã hội, mà chủ nghĩa xã hội mong đến, một đàng không thể nào thực hiện được ngoài sự áp bức cực độ của chính quyền; mặt khác cũng mặc ai nấy sống giả dối tung hoành, vì không còn chính quyền nào là chân thực. Lý do là không chính quyền nào căn cứ vào những phúc lợi vật chất thế tục được. Quyền bính chân chính chỉ do Thiên Chúa, vừa là nguyên lý vừa là cứu cánh của muôn vật thụ sinh.

Tín đồ công giáo, đảng viên xã hội, là hai danh hiệu mâu thuẫn với nhau.

Chủ nghĩa xã hội như bất cứ tà thuyết nào khác có phần sai, nhưng cũng có phần đúng (các Đức Giáo hoàng cổ kim đều xác nhận điều đó).

Nhưng dầu sao nó căn cứ vào một quan niệm xã hội sai lạc, không thể nào hòa giải với quan niệm của đạo công giáo xác đáng.

Hòa hợp chủ nghĩa xã hội với tôn giáo, và nhất là công giáo là một mâu thuẫn khó giải quyết được. Không ai là đảng viên chủ nghĩa xã hội và đồng thời giữ chức vị kitô hữu kiểu mẫu được.

Chủ nghĩa xã hội tái giáo dục tuổi thanh niên.

  • Những điều ta mới nhắc lại, và còn minh nhiên công bố tại đây, đều phải áp dụng vào một tổ chức mới của chủ nghĩa xã hội. Tổ chức ấy chưa mấy ai biết rõ, nhưng nó bành trướng mạnh trong bao phe đảng thiên về chủ nghĩa xã hội hiện tại.

Nó cải hóa mọi tâm hồn và cả những thuần phong mỹ tục nữa. Mượn sức nhiệm của một tình nghĩa bè bạn giả mạo, nó hấp dẫn tuổi thanh niên nói riêng. Nhưng nó cũng tìm tẩm nhiễm đại chúng để đào tạo một con người xã hội hóa theo chủ nghĩa của nó.

Trong bức thông điệp “Thầy Chí Thánh ta đã giảng giải về những nguyên tắc căn bản của một nền giáo dục Kitô hóa. Vậy ta không thể nào bỏ dịp này nữa, mà không chứng tỏ điều hiển nhiên này: mọi quan điểm và mọi thực hiện của chủ nghĩa xã hội về đàng giáo dục, đều trái ngược với nguyên tắc và tiêu chuẩn nền giáo dục của Chúa Kitô.

 Tất cả những người nào không chịu góp sức nhiệt tâm mạnh bạo, chống trả những nguy nan do chủ nghĩa xã hội gây nên, thì hoặc giả vờ khinh thường, hoặc thành thực không biết những nguy nan kinh khủng ấy. Nên phận sự của ta là tiên báo cho họ biết những nguy nan đang đe dọa những người ấy, mà nói quyết rằng:

“Nền giáo dục mới của chủ nghĩa xã hội, thì cha đẻ là chủ nghĩa cá nhân tự do: người thừa kế là cộng sản Nga xô”.

Những kitô hữu đã nhập vào chủ nghĩa xã hội.

  • Sự thật có vậy, thì anh em đoán được ta ưu sầu biết bao, khi thấy một số đông con yêu của ta rời bỏ chủ nghĩa công giáo mà nhập vào hàng ngũ chủ nghĩa xã hội. Ta không sao tin được! Lòng tin của họ còn toàn vẹn, ý chí của họ còn chính trực? Trong số tín hữu đó, người thì công khai ghi tên và tuyên xưng chủ nghĩa xã hội nói trên, người thì trôi theo nó, người thì bị bắt buộc công khai hay ngấm ngầm phải nhập vào các phe đảng xã hội.

Vì tình nghĩa cha con, ta hết sức lo âu và hằng tự hỏi, tìm hiểu làm sao mà họ đã sa vào cái trụy lạc ấy. Ta đã nghe vang dội bên tai những lời họ nói chữa mình rằng: Giáo hội và các tín hữu hằng đi sát với kẻ giàu sang mà chẳng lo gì đến công nhân, chẳng làm gì để cứu họ. Nên họ không có phương cách nào để bảo vệ quyền lợi của họ, ngoài phương cách nhập vào chủ nghĩa xã hội.

Thê thảm thay! đời nào cũng đã từng có, và đời ta bây giờ vẫn còn bao nhiêu người dầu tự đắc là kitô hữu, dầu còn ghi nhớ luật công bằng và bác ái cao siêu của Phúc Âm; họ không những bắt buộc phải trả cho từng người, những cái là của họ, mà lại phải cứu đỡ anh em túng thiếu như là cứu trợ chính Chúa Kitô, ấy thế mà họ vẫn cứ một lòng áp bức công nhân vì tư lợi.

Hơn thế nữa, cũng có kẻ lạm dụng đạo thánh để che khuất những sự bất công của họ, và thuận bề bác bỏ những khiếu nại chính đáng của công nhân làm việc cho họ. Thái độ độc ác này Ta sẽ không ngừng kết án. Chính vì họ mà Giáo hội vô tội đã bị cảnh cáo và mang tiếng là một tổ chức thông đồng với phe tư bản, không động lòng trắc ẩn trước sự ân cần và công lao của những người dân đen sống cực khổ không hưởng chút phúc lợi ở dưới thế. Thật là một nhận xét vô lý, một vụ bỏ vạ! tang chứng rõ ràng là:

Bức thông điệp ta mừng lễ kỷ niệm, cũng là một bằng chứng rực rỡ; đó là một vụ bỏ vạ, một sự lên án bất công, làm nhục cho Giáo hội và học thuyết xã hội quý hóa của Giáo hội nữa.

Tha thiết kêu mời tín hữu quay về đường chính.

  • Nhưng Ta không thể nào im tiếng và ngã lòng vì vụ bỏ vạ kia. Ta hết sức ưu sầu như một người cha lạc mất đàn con, Ta cũng không xua đuổi hay loại bỏ những con cái thân yêu đã bị lừa dối và lôi cuốn xa lạc chân lý và sự cứu rỗi. Trái lại với một lòng kính cẩn và hết sức nhiệt tâm, ta tha thiết kêu mời họ trở về với Giáo hội. Ước gì họ lắng tai nghe tiếng của Ta! ước gì họ chóng hồi tâm lại mà trở về nhà cha mà họ đã đành tâm bỏ đi. Ước gì họ bền tâm vững chí tiếp tục giao chiến trong hàng ngũ của các tín hữu, nghe tiếng Đức Lêô XIII khuyên nhủ không ngừng, mà phục hưng lại xã hội theo tinh thần của Giáo hội, và luôn luôn đoàn kết chặt chẽ trong sự công bằng và bác ái xã hội. Họ phải tin chắc rằng: Ở dưới thế hạnh phúc không lúc nào hoàn hảo bằng lúc chúng ta đứng cạnh Chúa Kitô là người giàu sang tuyệt đối, đã muốn sống bần cùng cho chúng ta thông phần giàu sang của Người; là trong thời tuổi trẻ Người đã sống thiếu thốn, luôn luôn đầu tắt mặt tối làm việc và chịu vất vả để chúng ta thêm sức dồi dào bởi trái tim Người đầy yêu thương phát ra; Sau hết là Người sẽ không thiên vị người nào, mà đòi hỏi nhiều ở những kẻ có nhiều và thưởng phạt ai nấy tùy theo công nghiệp của họ.

3. Cải thiện phong hóa.

  • Nhưng ta hãy xét mọi việc cho tường tận hơn. Ta sẽ thấy rõ ràng công việc cải tạo xã hội ai cũng mong ước không thể nào hoàn thành, nếu không phục hưng lại tinh thần kitô hữu trong đời sống trước đã. Các nhà kinh tế chuyên môn, đa số đã mất tinh thần Phúc Âm từ lâu. Tội nghiệp họ cố gắng xây dựng nền kinh tế, nhưng thay cho xây dựng nó trên nền đá kiên cố, trái lại họ chỉ xây dựng nó trên bãi cát.

Ta mới đưa mắt lược qua chế độ kinh tế hiện tại. Nhưng cũng đủ mà nhận thực các tệ đoan của nó. Ta đã luận xét chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội muôn mặt. Những chủ nghĩa ấy dầu dưới hình thức điều độ hơn cả, cũng vẫn xa cách Phúc Âm một vực một trời.

Vì thế Ta mượn lời Đức Tiên Giáo hoàng mà nói: Duy chỉ có một phương dược sửa chữa xã hội, là dẫn nó về với những cơ cấu và đời sống của Phúc Âm.

Chỉ Phúc Âm mới đủ hiệu lực mà giải phóng xã hội khỏi vấn vương vào những sự hay hư là cỗi rễ đủ mọi tính hư.

Loài người mê ảo vì bận trí vướng lòng vào thế gian phù vân chóng qua. Chỉ có phúc âm mới đưa họ về chân minh, mà khiến họ đưa mắt nhìn lên trời. Ai chối được xã hội ngày nay không cần đến phương dược linh nghiệm ấy?

Các linh hồn bại hoại, là ác quả của chế độ kinh tế hiện tại.

  • Loài người phần đa số xúc động, chỉ vì những biến cố, những phá hoại, những tệ đoan thế tục. Nhưng so sánh cho kỹ những tệ đoan ấy, với những bại hoại của các linh hồn, nào có ra gì.

Nói cho đúng, tình trạng xã hội kinh tế ngày nay là trở lực kinh khủng nhất, khiến loài người phần đông không chu toàn được việc khẩn cấp hơn cả, là việc rỗi linh hồn.

Vì ta kế vị Chúa Chiên đã cứu chuộc họ bằng Máu Thánh Người, Ta phải chăm nom săn sóc họ. Vậy nhìn đến cảnh thê thảm của họ, ta không khỏi động lòng thông cảm. Nhớ mục vụ của ta, nhớ tình cha con ràng buộc ta lại với họ, ta không ngừng tìm phương pháp cứu họ, và liệu sao cho mọi người thiện chí, cũng không ngừng lao tâm cương quyết cải hóa mọi sự theo công bằng và bác ái. Chinh phục thiên hạ bằng những tổ chức tăng gia sản xuất mãi, mà mất linh hồn thì nào có ích gì ! Dạy bảo họ những nguyên tắc kinh tế ngay thẳng, mà cứ để họ lạc xa đường chính; vì những tham vọng ích kỷ mê hoặc, cũng là vô ích. Biết đạo thánh Chúa mà hành động trái ngược với luật thánh Người, há chẳng phải là gây một thiệt hại lớn ư!

Nguyên do tệ đoan.

  • Đời sống xã hội và kinh tế, càng lạc xa Chúa Kitô thì các công nhân cũng càng chối Thiên Chúa. Tâm hồn của họ đầy những tham vọng mê man, là ác quả của tội nguyên tổ, đã phá trật tự Thiên Chúa đặt sẵn giữa các năng lực hồn xác của con người. Vì tội ấy loài người trôi theo những dục vọng đê hèn, mà ra ưa quý những của cải phàm hèn hay hư mà coi thường những của cải siêu nhiên vĩnh cửu. Lòng khao khát tiền của, và thế sự, thì phát nguyên từ đó. Con người cũng không đời nào cho nó thỏa mãn được.

Trái lại vì nó mà đời nào lòng người cũng khuynh hướng về sự lỗi luật Chúa, giày đạp quyền lợi anh em dưới chân. Nhưng dưới chế độ kinh tế hiện tại, lòng người vốn yếu đuối thì lại càng sa ngã nhiều hơn nữa. Tình trạng kinh tế và mọi cơ cấu đã lập ra đảng này, thì hằng lung lay. Những người phụ trách thì đêm ngày lo chống đỡ. Kết quả một số đông người càng ngày càng chai đá không quản gì đến lương tâm, một cứ hết thử phương pháp này, lại thử đến phương pháp kia; quyết tăng gia hay bảo vệ hoa lợi họ đã vất vả thâu góp cho khỏi vì vận hạn mà họ phải mất hết trong chốc lát. Những hoa lợi ai cũng dễ dàng thâu góp, vì tự do buôn bán thường hấp dẫn bao nhiêu người, bỏ sự sản xuất, chuyên lo trao đổi sản phẩm, vì đó là một phương cách làm ích lợi nhiều. Một sự đầu cơ vô hạn, làm cho giá mọi sản phẩm cứ lên xuống mãi theo sở thích và tham vọng của họ. Sự sản xuất dầu được tổ chức khôn ngoan đến đâu đi nữa, thì cũng không sao theo kịp.

  • Pháp luật đáng lẽ phải tổ chức tư bản cho có sự hợp tác, cho mọi người hưởng lợi điều hòa, lại chia với nhau phần thiệt hại rủi may. Nhưng thật sự pháp luật gây dịp cho những sự lạm quyền đáng trách, chẳng còn mấy ai ý thức trách nhiệm. Tội lỗi đến công bằng là sự thường, mà lương tâm ai nấy cũng không bị cắn rứt bao nhiêu. Vì có đại chúng chịu vậy, ít khi phản đối, nên người ta tha hồ lừa dối nhau, vì phạm công lý là việc đáng kết án nghiêm ngặt. Chính kẻ cầm quyền chỉ huy những tổ chức kinh tế chung lại đồng mưu phạm đến những lời cam đoan của họ, khinh thường quyền lợi những kẻ đặt hết tin tưởng vào họ. Vì tư lợi riêng, họ khiến dân đen mất cả phần vốn mà người ta đã mất công dành dụm. Ta còn nói gì nữa về những người kinh doanh nhiều, không phân biệt những việc chính tà, phải trái, mà xúi giục những dục vọng của dân chúng tin ở họ, rồi lạm dụng dân chúng để gây lợi riêng.

Chỉ một kỷ luật luân lý được chính quyền nâng đỡ mới đề phòng hay tu bổ lại những tổn thất ấy. Nhưng, tội nghiệp từ trước đến giờ kỷ luật ấy không biết bao phen đã nhu nhược. Chế độ kinh tế mới đã xuất hiện ngay trong lúc chủ nghĩa duy lý được truyền bá và đâm rễ sâu khắp mọi nơi. Kết quả nền kinh tế mới cũng thụ hưởng và loại bỏ luân lý luôn. Luân lý bị loại ra, thì dần dần kinh tế bị mọi tham vọng phàm hèn tha hồ xâm chiếm.

Từ đó loài người đa số chỉ còn lo mở mang tài sản bằng đủ mọi phương kế chính tà. Họ đặt lợi riêng lên trên hết mọi sự. Dầu những tội ác kinh khủng nhất, phạm đến quyền lợi anh em, họ cũng thản nhiên nhúng tay vào.

Những kẻ mở đường đưa đến trụy lạc ấy, đã không thiếu người bắt chước noi theo sự gian ác của họ, kẻ thì theo vì ngạc nhiên trước sự thành công vĩ đại của họ, kẻ thì theo vì cảm phục đời sống xa hoa kiêu hãnh của họ, kẻ thì lương tâm non nớt ngần ngại, nhưng cũng theo vì bị chê cười nhạo báng, kẻ thì đấu tranh nhưng vì không dám dùng những phương kế bất lương, nên đã bị họ diệt trừ đánh bại.

Những ban chấp hành phụ trách kinh tế đã bãi bỏ luân lý thì tất nhiên công nhân dần dần cũng bãi bỏ. Cấp trên cấp dưới cùng sa vào trụy lạc. Giới công nhân càng chống suy đồi, vì càng thấy đa số chủ nhân không quản gì đến phần hồn khinh thường những phúc lợi cao thượng họ còn noi theo, mà chỉ dùng họ như thể họ là những khí cụ vô ý thức.

Ai cũng khiếp sợ khi thấy những tệ đoan đe dọa những xưởng lớn ngày nay, về luân lý công nhân, nhất là công nhân tuổi trẻ; về nết na đức hạnh của phụ nữ ! ai cũng khiếp sợ, khi thấy chế độ cần lao hiện tại gây bao trở lực cho đời sống gia đình, hoặc vì hoàn cảnh khốc hại, cửa nhà công nhân phải ở, hoặc vì gia đình công nhân bị phân tán, không giữ được sự ấm cúng cần thiết. Ai cũng khiếp sợ khi thấy những trở lực lớn lao ngăn cấm công nhân không còn thánh hóa được ngày chủ nhật và lễ trọng. Ai cũng khiếp sợ khi thấy công nhân và các dân đen xưa kia có lý tưởng công giáo rất cao, mà ngày nay đã mất cả tinh thần kitô hữu, vì quá bề bộn về việc cơm bánh thường ngày. Theo ý Chúa quan phòng không cứ gì tội nguyên tổ đối với con người, cần lao phải là phương kế mở mang phần xác, vật chất và tinh thần. Nhưng với tổ chức kinh tế vô đạo kia, cần lao chỉ còn đưa nhân loại đến trụy lạc.

Trong xưởng máy, muôn vật thiên nhiên đều thêm giá trị, Nhưng loài người trái lại, chỉ hư đi và suy đồi mãi.

V.    Phương dược

1.      Hợp lý hóa kinh tế theo đạo Chúa Kitô.

  • Bao lâu sự khủng bố các linh hồn nói trên còn tồn tại, thì bấy lâu mọi cố gắng cải thiện xã hội sẽ bị thất bại. Phương dược linh nghiệm duy nhất, là trở về với Phúc Âm, thực hành những lời hằng sống của Chúa Kitô, Đấng đã nói rằng: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói không thể nào qua được”.

Những nhà xã hội học chuyên môn, tha thiết đòi hỏi sự hợp lý hóa kinh tế để cải tạo xã hội hiện tại. Nền kinh tế ấy ta cũng quyết tu bổ lại, nhưng nó sẽ không bao giờ hoàn bị, nếu ta không khiến mọi hành động của nhân loại phát triển điều hòa và quy về tổ chức vĩ đại của Chúa, mà đáng lẽ loài người phải bắt chước và phải thực hành tùy theo sức.

Tổ chức ấy chính là tổ chức hoàn bị mà Giáo hội không ngừng nhắc đến và cũng là tổ chức lý trí tự nhiên đòi hỏi.

Trong tổ chức ấy, Thiên Chúa vừa là căn nguyên, vừa là cứu cánh tuyệt đối của mọi hành động thụ tạo. Muôn vật trong thiên nhiên cũng chỉ là phương tiện, ta phải hưởng dụng điều độ để bước tới cứu cánh đời sống. Trong tổ chức những nghề nghiệp gây lợi không bị hạ giá đâu. Trái lại, thay cho khinh bỉ những nghề nghiệp và cho rằng đối với phẩm cách nhân loại là bất xứng; thì ta xác nhận những nghề nghiệp ấy rất thích hợp với thánh ý Chúa đã dựng nên loài người để làm việc, và dùng việc làm để cấp đủ mọi sự cần cho đời sống. Như vậy kẻ sản xuất không cấm tăng gia sản riêng, trái lại, công lý ban phép cho những người nào mưu ích cho xã hội thêm phong phú cũng được hưởng phần công ích do họ gây nên để sống xứng với địa vị của họ. Chỉ có một điều kiện là họ phải thêm giầu theo luật thánh Chúa. Họ phải tôn trọng quyền lợi của anh em, họ phải tiêu dùng của cải theo luật đức tin và lý trí chỉ dạy.

Bài này đã được xem 1029 lần!

Pages ( 9 of 16 ): <1 ... 78 9 1011 ... 16>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]