CẨM NANG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

167. Chính xác thì “nghỉ ngơi” là gì? Kitô hữu nên làm gì vào Chủ Nhật?

Vào Chủ Nhật và các ngày lễ buộc, người Công giáo phải tham dự Thánh Lễ (x. GLHTCG 2042). Và, vào những ngày này, các tín hữu phải “tránh đừng dấn thân vào các việc lao động hay các hoạt động nào mà ngăn cản việc phụng tự phải dành cho Thiên Chúa, ngăn cản niềm vui riêng thuộc về ngày của Chúa, ngăn cản việc thực thi các công việc từ thiện và ngăn cản sự thư giãn phù hợp về tinh thần cũng như về thể xác” (GLHTCG 2185). (TLHT 284-285)

168. Công việc chuyên môn thường nhật có thể là một ơn gọi nên thánh và truyền giáo không?

Khi chúng ta kết hợp công việc của mình với sự cứu chuộc của Đức Kitô, thì “lao động là một phương thế thánh hoá và như một cách làm cho các thực tại trần thế sống động lên nhờ Thánh Thần của Đức Kitô” (TLHT 263). (TLHT 263)

169. Một cuộc sống chăm chỉ lao động có tương hợp với cầu nguyện tha thiết không?

Có. Khi nó được hướng tới đức ái là mục tiêu cuối cùng của nó, công việc của con người trở thành một dịp để chiêm niệm và cầu nguyện chân thành. Điều này đem lại cho lao động một chiều kích tâm linh. (TLHT 266)

170. Tại sao Giáo hội đề cập đến lao động trong Giáo huấn Xã hội của mình?

Kể từ Thông điệp Rerum Novarum Giáo hội đã đề cập đến lao động liên quan đến “vấn đề công nhân”, đó là vấn đề bóc lột các công nhân. Trong Giáo huấn Xã hội của mình, Giáo hội bảo vệ phẩm giá không thể bị tước đoạt của công nhân, và chưa bao giờ ngừng xem xét các vấn đề của công nhân trong bối cảnh xã hội, mà chúng đang càng ngày càng hướng đến các chiều kích rộng khắp thế giới. (TLHT 267-269)

171. Có phải con người được xác định bởi công việc của mình không? Có phải phẩm giá của họ phát xuất từ nghề nghiệp của họ?

Không, nhân phẩm đến từ việc con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao đức Gioan Phaolô II phân biệt giữa các chiều kích chủ thể và khách thể của lao động. Chiều kích khách thể của lao động bao gồm sản phẩm, các công cụ và máy móc, và các hoàn cảnh bên ngoài của công việc. Chiều kích chủ thể quy về người lao động như một người đang hành động. Hai chiều kích có liên quan với nhau, nhưng chiều kích chủ thể quan trọng hơn. Chính trong chiều kích chủ thể với tư cách một ngôi vị mà người lao động có phẩm giá. Nói cách khác, chính người lao động – ngôi vị – thể hiện phẩm giá qua lao động của mình, chứ không phải cách nào khác. (TLHT 270-271)

172. Phẩm giá của một người có thể không phát xuất từ lao động của người đó, nhưng chẳng phải đôi khi lao động xúc phạm phẩm giá của một người sao?

Vâng. Bất cứ khi nào người lao động được xem như một thứ hàng hoá đơn giản hoặc một bánh răng vô cảm trong một cái máy, thì phẩm giá của người đó bị xúc phạm. Lao động vì con người, chứ không phải con người vì lao động. Điều này có các hệ quả đối với mối quan hệ giữa lao động với tư bản, đối với quyền lao động và các quyền của một người khi lao động. (TLHT 271-272)

173. Quan hệ giữa lao động và tư bản là gì?

“Tư bản” dùng để chỉ các mặt hàng vật chất được sử dụng để sản xuất trong một doanh nghiệp nhất định (đất nông nghiệp, công cụ, nhà máy, máy móc, v.v.) và các nguồn lực tài chính (tiền, tín dụng, cổ phiếu, trái phiếu, v.v.) được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc được sử dụng trong thị trường tài chính. Lao động, vì tính chủ thể hoặc nhân vị của nó, vượt trội so với tư bản. Tuy nhiên, chúng phụ thuộc lẫn nhau. Bạn không thể có cái này mà không có cái kia: tư bản không có lao động của con người thì cũng vô dụng; lao động mà không có tư bản thì không hữu hiệu. Ví dụ, một cái máy mà không có ai làm việc với nó thì cũng vô dụng, giống như nhiều người cố gắng lao động mà không có các công cụ thì không có hiệu quả. (TLHT 276-277)

174. Nghe thì dễ hơn là trong đời sống thực tế. Phải chăng không có các căng thẳng giữa lao động và tư bản hay sao?

Có. Lao động và tư bản thường xảy ra xung đột trong quá khứ và những căng thẳng đó có xu hướng tái diễn khi các hoàn cảnh kinh tế – xã hội thay đổi. Có nguy cơ là tư bản sẽ bóc lột và tha hoá người lao động. Con người bị tha hoá khi lợi nhuận được xem trọng hơn phẩm giá của họ. Tìm kiếm mối quan hệ chính xác giữa lao động và tư bản để bảo đảm phẩm giá của người lao động là một thử thách triền miên. (TLHT 279-280)

175. Những khía cạnh nào khác phải được xem xét liên quan đến tương quan giữa lao động và tư bản?

Lao động bao hàm quyền tham gia vào cuộc sống của công ty trong đó người ta làm việc. Các hình thức tham gia cụ thể tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi xã hội, và thay đổi tuỳ theo các tình huống cụ thể khác nhau. (TLHT 281)

176. Có những khía cạnh đặc biệt về phẩm giá lao động trong nông nghiệp không?

Nông nghiệp rất quan trọng đối với nhân loại vì nó sản xuất lương thực hàng ngày cho ta. Thật không may, ở một số quốc gia, lại có một hệ thống không hiệu quả là bỏ mặc các khu đất rộng lớn không được canh tác (latifundium). Trong những trường hợp này, việc phân phối lại đất đai như là một phần của việc cải cách nông nghiệp là điều đáng mong đợi để đạt được sự phát triển kinh tế đích thực. (TLHT 299-300; LS 124-129)

177. Ngành khai mỏ hoặc công nghiệp khai thác có các trách nhiệm đạo đức đặc biệt nào không?

Có. Khai mỏ là một ngành công nghiệp quan trọng làm cho tài nguyên thiên nhiên của trái đất sẵn sàng phục vụ các nhu cầu của nhân loại. Tuy nhiên, các công ty mỏ từ các nước giàu lại thường khai thác khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên ở các nước đang phát triển, đôi khi với việc đồng loã của những người nắm quyền lực ở các nước nghèo, để “đảm bảo sự thịnh vượng riêng tư của chính họ mà hy sinhsự thịnh vượng của dân chúng địa phương” (AM 79). Giáo hội phải lên tiếng chống lại trật tự bất công ngăn cản người nghèo củng cố nền kinh tế của họ. Hơn nữa, ở khắp mọi nơi trên thế giới, việc khai mỏ có thể phá huỷ đất nông nghiệp, gây ô nhiễm môi trường và gây ra tình trạng sa mạc hoá. Do đó mà gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với nền tảng kinh tế của các khối dân cư vì họ không được chuẩn bị hoặc không thể thích nghi với những thay đổi chưa từng có đối với lối sống và phương tiện sinh tồn của họ. (AM 79-80)

178. Tại sao Giáo hội ủng hộ “quyền lao động”?

Giáo hội ủng hộ “quyền lao động” bởi vì lao động là điều tốt cho nhân loại do nó cho phép người nam và người nữ thể hiện và nâng cao phẩm giá con người của họ. Bên cạnh đó, lao động là cần thiết để kiếm kế sinh nhai cho mình và gia đình mình. Công việc không chỉ là lao động để có tiền lương, mà còn bao gồm bất kỳ nỗ lực nghiêm túc nào để phục vụ nhu cầu của tha nhân một cách có hệ thống; do đó, nuôi dạy con cái, điều hành một gia đình, việc làm tự nguyện, v.v. cũng là lao động. Tuy nhiên, đối với hầu hết mọi người, lao động được thực hiện để có thu nhập và là yếu tố căn bản để hình thành và duy trì gia đình, để có được tài sản và đóng góp cho công ích của xã hội. (TLHT 287)

179. Giáo hội nói gì về thất nghiệp?

Thất nghiệp là một “thảm hoạ xã hội thật sự” (TLHT 287, trích dẫn LE18), đặc biệt khi thất nghiệp ảnh hưởng đến các thế hệ trẻ. Do đó, tạo công ăn việc làm đầy đủ là một mục tiêu quan trọng cho mọi xã hội hướng tới công bằng và công ích. (TLHT 287-288)

180. Chính phủ một nước nên làm gì để có công ăn việc làm cho tất cả những người có khả năng tham gia lao động?

Chính phủ nên khuyến khích việc tạo ra các cơ hội việc làm trên phạm vi lãnh thổ cả nước. Nhiệm vụ này không bao gồm việc trực tiếp bảo đảm công việc cho mọi người dân, bởi vì điều này sẽ làm cho đời sống kinh tế trở nên cứng nhắc và hạn chế tự do, sáng kiến ​​cá nhân, nhưng nhiệm vụ này tạo ra các điều kiện cho phép tăng trưởng kinh tế và bảo đảm sự phát triển con người toàn diện. (TLHT 291)

181. Cộng đồng quốc tế có thể làm gì để thúc đẩy công ăn việc làm đầy đủ?

Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, lao động đã trở nên lưu động: các công ty di chuyển đến các nước lao động có giá rẻ hơn và có ít sự hạn chế trong việc đối xử với công nhân. Gia đình các quốc gia nên thúc đẩy việc hợp tác quốc tế để bảo vệ quyền lợi của người lao động, đặc biệt đối với sự an toàn tại nơi làm việc và mức lương phù hợp. (TLHT 292)

182. Việc cần phải lao động để duy trì sinh kế lại chẳng đối chọi với các bổn phận khác của ta đối với gia đình mình hay sao?

Vâng, điều này thật sự có thể xảy ra. Gia đình cần công việc vì sinh kế nhưng cũng cần thời gian ở bên nhau. Thật không dễ dàng thực hiện các chính sách để không gây bất lợi nhưng hỗ trợ hạt nhân gia đình. Tuy nhiên, đó là một thách thức đáng ta đón nhận: cuộc sống gia đình và công việc ảnh hưởng lẫn nhau theo nhiều phương cách. (TLHT 294)

183. Có phải quyền lao động cũng áp dụng cho phụ nữ?

Vâng, người nam và người nữ được tạo dựng bình đẳng về nhân phẩm và quyền lợi, và điều này cũng đúng đối với việc trả lương, bảo hiểm và an sinh xã hội. Tuy nhiên, người nam và nữ có các chức năng không đồng nhất. “Tài năng người nữ” có thể đóng góp một điều gì độc đáo trong tất cả các thể hiện của sinh hoạt xã hội; vì thế sự hiện diện của phụ nữ tại nơi làm việc là rất quan trọng. Ngoài ra, việc tổ chức công việc không nên là một trở ngại đối với vai trò độc đáo của phụ nữ trong gia đình. (TLHT 295; LW 9-12)

185. Giáo hội nói gì về lao động trẻ em?

Có những xã hội và nền văn hoá trong đó trẻ em làm việc cho gia đình theo độ tuổi và khả năng của chúng. Nếu không có thiệt hại gây ra cho sức khoẻ của chúng và trẻ có đủ thời gian để học và vui chơi, thì loại công việc này là một đóng góp cho gia đình và không xúc phạm phẩm giá con người. Tuy nhiên, bất kỳ hình thức lao động trẻ em có hại nào cũng đều không thể dung thứ và cấu thành một loại bạo lực. (TLHT 296)

185. Người nhập cư có quyền làm việc không?

Có. Mọi người đều có quyền làm việc. Các bất bình đẳng lớn tồn tại giữa các nước nghèo và các nước giàu dẫn đến con số ngày càng tăng những người tha phương tìm việc làm để duy trì sinh kế gia đình. Áp lực này là lý do tại sao việc nhập cư phải được điều chỉnh bằng pháp luật, theo tiêu chí công bằng và lòng khoan dung. Điều này có nghĩa là Giáo hội không chủ trương chính sách biên giới mở; tuy nhiên, người ta có quyền di cư đến một quốc gia khác thay vì chết đói tại quê hương mình. Mặc dù những người thâm nhập vào một quốc gia tức là vi phạm pháp luật vì họ là những người nhập cư không có giấy tờ, nhưng họ vẫn phải được đối xử như những người có nhân phẩm, điều đó có nghĩa là họ cũng có quyền lao động. (TLHT 297-298)

186. Quyền của người lao động khi họ được tuyển dụng là gì?

Người lao động, một khi đã tìm được việc làm, đều sở hữu các quyền bắt nguồn từ nhân phẩm của họ với tư cách là những con người. Một số quyền này là quyền hưởng đồng lương công bằng; quyền nghỉ ngơi; quyền “có được môi trường làm việc và với những quá trình sản xuất không làm hại tới sức khoẻ thể lý hay đời sống luân lý toàn diện của người lao động” (TLHT 301, trích dẫn LE 19); quyền an sinh xã hội liên quan đến thất nghiệp, tuổi già, bệnh tật và thai sản; quyền hội họp và lập hội. (TLHT 301)

187. Thế nào là lương công bằng?

Nói chung, tiền lương chỉ công bằng nếu tương xứng với giá trị mà công việc đóng góp thêm vào năng suất của công ty. Lương công bằng là thành quả công việc của một người cho phép người lao động chu cấp cho sinh kế của mình và trở thành chủ sở hữu tài sản tư nhân, là một phương tiện quan trọng để đạt được sự tự lập. Người sử dụng lao động từ chối trả lương công bằng hoặc không trả lương đúng hạn và tương xứng với công việc thực hiện là phạm một bất công nghiêm trọng (xem Lv 19,13; Đnl 24, 14-15; Gc 5,4). Người chủ lao động nên làm hết sức mình để bảo đảm phúc lợi của công nhân và gia đình họ. (TLHT 302)

188. Có phải phúc lợi kinh tế của một quốc gia chỉ được đo bằng số lượng hàng hoá sản xuất không?

Không, không chỉ được đo bằng số lượng hàng hoá vật chất mà còn bằng cách thức sản xuất ra các hàng hoá đó và mức độ công bằng trong việc phân phối thu nhập của đất nước. Do đó, một nền kinh tế không hoạt động tốt nếu tiền lương không công bằng, nếu cơ hội không tốt đẹp hoặc nếu sân chơi cạnh tranh không đồng đều. (TLHT 303)

189. Giáo hội nói gì về các công đoàn?

Nhiệm vụ cụ thể của các công đoàn là bảo đảm quyền lợi công bằng của người lao động trong khuôn khổ công ích toàn xã hội. Giáo hội công nhận vai trò căn bản này của các công đoàn lao động như là một hình thức liên đới giữa các công nhân. Giáo hội cũng dạy rằng các tương quan trong thế giới việc làm nên được ghi dấu bằng sự hợp tác. Đình công đôi khi không thể tránh khỏi như là phương thế cuối cùng; tuy nhiên, hận thù và tìm cách lạm dụng hoặc loại bỏ người khác trong các hình thức bạo lực của đấu tranh giai cấp là không thể chấp nhận được. (TLHT 304-307)

190. Thế giới việc làm không ngừng tiến triển và thay đổi. Điều này có ý nghĩa gì đối với Giáo huấn Xã hội của Giáo hội về lao động?

Các hình thái lịch sử thay đổi, nhưng những yêu cầu về các quyền bất khả xâm phạm của người lao động là không thể thay đổi. Các thay đổi, ví dụ như những thay đổi gây ra bởi việc toàn cầu hoá và tiến bộ công nghệ, mang lại những sự mất cân đối về kinh tế và xã hội. Những điều này phải được giải quyết bằng cách khôi phục một hệ thống cấp bậc đúng đắn về các giá trị, và bằng cách đặt phẩm giá con người của người lao động trước tất cả mọi thứ khác. Đây là thách thức không bao giờ kết thúc của nền nhân bản Kitô giáo trong các lĩnh vực kinh doanh, lao động và xã hội trên phạm vi toàn cầu. (TLHT 319, 321-322)

Chủ đề Đặc biệt: Di dân

ELIZABETH REICHERT

191. Con người có quyền di cư không?

Tất cả mọi người có quyền có được các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. “Khi có đầy đủ các lý do chính đáng cho quyền này, họ được phép di cư ra nước ngoài và định cư ở đó. Nhưng nguyên việc mình là công dân của một nước cụ thể cũng không tước bỏ khỏi người đó quyền là thành viên của gia đình nhân loại hay ngăn cản họ là công dân của khối cộng đồng quốc tế, nơi mà toàn thể nhân loại trên khắp thế giới đoàn tụ với nhau trong tình bằng hữu chung” (PT 25). (PT 25)

192. Quyền và nghĩa vụ của người nhập cư trái phép hoặc không có giấy tờ là gì?

Những người nhập cư không có giấy tờ dễ bị bóc lột và đôi khi bị xem là không xứng đáng được hưởng các quyền và các dịch vụ xứng với con người. Tình trạng pháp lý của một người không tước đoạt phẩm giá của họ. “Mỗi di dân là một con người, vì thế, những quyền căn bản, bất khả xâm phạm của họ cần phải được mọi người tôn trọng trong mọi hoàn cảnh” (CV 62). Tương ứng với các quyền này là các bổn phận: “Người nhập cư buộc phải tôn trọng, với lòng biết ơn, di sản vật chất và tinh thần của đất nước đón nhận họ, tuân thủ pháp luật và chia sẻ các nhiệm vụ công dân trong nước đó” (GLHTCG 2241). (TLHT 297-298; GLHTCG 2241; CV 62)

193. Người nhập cư không lấy mất việc làm của những công dân hợp pháp và là gánh nặng cho Nhà nước sao?

“Nhập cư có thể là một nguồn lực phát triển hơn là cản trở sự phát triển…. Những người này đến từ những khu vực kém may mắn trên thế giới và việc họ di cư đến các nước phát triển thường bị coi là sự đe doạ đối với các mức sống cao đã đạt được nhờ nhiều thập niên phát triển kinh tế. Thế nhưng, trong hầu hết trường hợp, những người nhập cư đáp ứng nhu cầu lao động, mà nếu không có họ, sẽ chẳng đáp ứng được tại những lĩnh vực và lãnh thổ mà các lực lượng lao động địa phương không có đủ hay không muốn tham gia vào công việc đang cần lao động” (TLHT 297). Họ đóng góp cho cả nền kinh tế địa phương thông qua việc họ lao động, mua sắm và đóng thuế, và cho cả nước mẹ qua việc gửi tiền về cho gia đình họ. Đồng thời, họ “không thể được coi là một loại hàng hoá hoặc chỉ là một lực lượng lao động thuần tuý” (CV 62). Mỗi người nhập cư –có giấy tờ hay không – là một nhân vị, và như vậy có một phẩm giá căn bản và những quyền lợi không thể chuyển nhượng. (TLHT 297-298; CV 62; GS 66)

Bài này đã được xem 1032 lần!

Pages ( 10 of 18 ): <1 ... 89 10 1112 ... 18>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]