CẨM NANG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

194. Các bổn phận chủ yếu của chính phủ liên quan đến nhập cư là gì?

Giáo hội tuyên bố rằng khi có các lý do chính đáng, người ta có quyền di cư. Do đó, “những quốc gia giàu hơn buộc phải đón nhận, bao nhiêu có thể, những người nước ngoài” (GLHTCG 2241). Đồng thời, Giáo hội không chủ trương chính sách “các biên giới mở”. Các chính phủ có cả quyền và bổn phận bảo đảm biên giới và thực thi pháp luật của mình. “Không nước nào có thể cho rằng tự mình giải quyết được những vấn đề di dân ngày nay” (CV 62).

Những quyền và bổn phận có vẻ mâu thuẫn này được hoà giải theo nguyên tắc thứ ba: một quốc gia phải quy định biên giới của mình với sự công bằng và tình thương, hoặc với “công bằng và quân bình” (TLHT 298). “Một quốc gia không được chỉ biết quyết định lo cho nhu cầu người dân nước mình mà thôi, và chẳng lo cho ai khác. Phải chân thành lo cho nhu cầu của tất cả mọi người mới là đúng đắn” (USCCB, Giáo huấn Xã hội Công giáo về Nhập cư và Di dân). (TLHT 298; GLHTCG 2241; CV 62)

195. Một số bước tích cực có thể được thực hiện trong cải cách nhập cư là gì?

Ta không thể nhắm mắt làm ngơ trước sự đau khổ của những người anh chị em ta và việc hàng ngàn người phải rời bỏ nhà cửa để liều thân mất mạng khi băng qua sa mạc hoặc những vùng nước nguy hiểm với hy vọng có được một tương lai tươi sáng hơn. “Đây là một hiện tượng nổi bật về con số nói chung người trong cuộc về những vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá và tôn giáo do nó gây ra, và về những thách đố ghê gớm đặt ra cho các nước và cộng đồng quốc tế. Chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang đối diện với một hiện tượng xã hội đáng làm nên lịch sử của kỷ nguyên này vì nó đang cần đến những chính sách táo bạo, hướng đến tương lai của việc hợp tác quốc tế, nếu hiện tượng này được xử lý một cách hữu hiệu” (CV 62).

Trước tiên chúng ta phải giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của việc di cư (ví dụ: phấn đấu để giảm nghèo bằng cách xúc tiến việc phát triển kinh tế bền vững). Thứ hai, cần cải cách các hệ thống pháp lý liên quan đến nhập cư. Giáo hội không ủng hộ việc nhập cư bất hợp pháp, nhưng chủ trương thay đổi một hệ thống đã hư hỏng. Các bước thực tế bao gồm việc đưa ra các con đường để nhập cư hợp pháp, đoàn tụ gia đình và tạo ra những cơ hội kiếm được sự hợp pháp hoá cho những người nhập cư không có giấy tờ.

(TLHT 298; CV 62; USCCB, Những Câu thường Hỏi về Cải cách Nhập cư)

7. Đời sống Kinh tế: Phát triển, Thịnh vượng và Công bằng cho Tất cả

MARTIN SCHLAG

Chúng ta không thể tách rời những gì chúng ta tin khỏi cách chúng ta hành động trên thị trường và cộng đồng rộng lớn hơn, vì đây là nơi chúng ta đóng góp phần chủ yếu cho công cuộc theo đuổi công bằng kinh tế.

USCCB, Công bẰngKINH TẾ CHO TẤT CẢ, 25

Giáo hội không chỉ thúc bách chúng ta hãy có một tấm lòng cho người nghèo, nhưng còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có một tâm trí cho người nghèo. Những người làm việc trong lĩnh vực kinh doanh và kinh tế có thể là “một tâm trí” như vậy. Kinh doanh, nếu tuân thủ pháp luật và luật luân lý sẽ tạo ra nhiều thiện ích. Kinh doanh tạo công ăn việc làm, sản xuất hàng hoá, đổi mới và cải thiện cuộc sống của chúng ta. Giáo hội mong muốn một nền kinh tế tạo ra sự giàu có, thịnh vượng và công bằng cho tất cả mọi người, chứ không chỉ cho một số người.

196. “Kinh tế” nghĩa là gì?

Kinh tế là nỗ lực đáp ứng các nhu cầu vật chất của con người một cách an toàn và bền vững. Nói cụ thể, điều này bao gồm sản xuất, phân phối và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Những yếu tố này giúp các cá nhân, các xã hội và thế giới tồn tại và phát triển.

197. Mục tiêu của kinh tế là gì?

Mục tiêu của kinh tế là cung cấp sẵn các hàng hoá và dịch vụ mà tất cả mọi người cần cho sự sống còn của họ và giúp phát triển điều Thiên Chúa mong muốn nơi họ. Các nguồn lực để làm điều này (nguyên liệu, máy móc, đất đai, lao động, v.v.) thì khan hiếm. Do đó, chúng ta cần tổ chức nền kinh tế và tạo ra các hệ thống trong đó các vật liệu khan hiếm này được sử dụng hiệu quả nhất có thể. Nguồn gốc và cứu cánh của toàn bộ nền kinh tế là con người. Như trong tất cả các hoạt động khác của con người, trong đời sống kinh tế, phẩm giá con người phải được tôn trọng và phát huy, cũng như ơn gọi của con người là phải hướng đến sự phát triển và công ích của toàn xã hội. (TLHT 334, 346, 375; GS 63)

198. Thế nào là tương quan giữa kinh tế và đạo đức?

Như trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kinh tế có logic và luật lệ riêng. Hệ thống kinh tế của chúng ta là nền kinh tế thị trường, trong đó thị trường là thể chế quan trọng nhất. Trong “không gian”này của thị trường (chẳng hạn như eBay), nhiều người mua và người bán gặp nhau để thương lượng cách tự do về giá cả, số lượng và chất lượng sản phẩm.

Nền kinh tế thị trường cực kỳ hữu hiệu, nhưng để thật sự tự do và tốt đẹp, nó cần các nhân đức, các chuẩn mực đạo đức, văn hoá làm việc và các quy định pháp luật rõ ràng được Nhà nước bảo đảm. Nó cũng phải cung cấp cho những người không thể có gì để cống hiến cho thị trường, ví dụ, những người không thể làm việc vì bệnh tật hoặc tuổi tác hoặc những người không một xu dính túi không do lỗi của họ. Công đồng Vatican II đã công nhận rõ “sự tự chủ hợp pháp của các thực tại trần gian”, nhưng nhấn mạnh rằng sự tự chủ đó không phải “tuyệt đối”, mà chỉ “tương đối” (x. GS36). Các luật của thị trường tùng phục các luật của Thiên Chúa và không thể biện minh cho cách hành xử vô luân. Hơn nữa, đạo đức là một phần thiết yếu của việc quản trị và quản lý tốt. Điều này có nghĩa là các hành động thiếu đạo đức – về lâu về dài – cũng là sai lầm về kinh tế và ngược lại: các hành động sai lầm về kinh tế thì vô luân vì chúng đưa đến sự lãng phí tài nguyên. (TLHT 330-333; GS 36)

199. Điều này có nghĩa gì trong thực tiễn?

Sự gia tăng của cải cũng tốt về mặt luân lý nếu điều đó không chỉ dành cho một số ít người, mà còn cải thiện tình hình cho tất cả mọi người. Phát triển không thể chỉ giới hạn ở sự gia tăng tiêu dùng hoặc tăng trưởng kinh tế, mà nên bao gồm sự phát triển toàn diện đối với toàn thể con người. Hơn nữa, gia tăng tiêu dùng mà không có kiến ​​thức về cách duy trì và tái tạo sự gia tăng này, thì không phải là sự phát triển thật sự.

Đức tin, gia đình, giáo dục, sức khoẻ và nhiều giá trị khác đều bao gồm trong khái niệm phát triển. Tìm kiếm hạnh phúc chỉ trong sự tiêu thụ thực ra lại là một dạng nghèo về mặt luân lý (“chủ nghĩa tiêu dùng”). Vì vậy, kinh doanh tốt cũng phải tính đến sự phát triển toàn bộ con người, thay vì chỉ nhắm đến một khía cạnh của sự an lạc – cho dù quan trọng – đó là khía cạnh tiêu thụ của con người. (TLHT 334)

200. Thái độ chung của Giáo hội đối với nền kinh tế là gì?

Giáo hội nhìn kinh tế dưới ánh sáng tích cực. Giáo hội muốn người nghèo cũng được có mặt trong cấu trúc của nền kinh tế, để ngày càng gia tăng số người có phẩm giá kiếm kế sinh nhai, và muốn người nghèo có thể hưởng ít ra là một sự thịnh vượng khiêm tốn, sống mà không sợ nghèo. (TLHT 373-374; GS 63, 65; EG 202)

201. Toàn cầu hoá là gì?

Nền kinh tế toàn cầu ngày càng liên kết với nhau và phụ thuộc nhau. Toàn cầu hoá là một tiến trình bắt đầu với sự sút giảm tầm quan trọng của các biên giới quốc gia trong các mối quan hệ kinh tế sau thời Chiến tranh Lạnh. Nó đã được thực hiện nhờ sự cải thiện các cơ sở hạ tầng giao thông và cuộc cách mạng kỹ thuật số, dẫn đến việc chuyển giao sản xuất đến những nơi có thể thực hiện với giá rẻ hơn, việc mở cửa các thị trường mới và các nguồn tài chính tự do hơn. Hơn nữa, việc du hành trên thế giới đã trở nên dễ dàng hơn nhiều, thông tin có thể tự do trao đổi, v.v. (TLHT 361)

202. Giáo hội nói gì về toàn cầu hoá?

Toàn cầu hoá là một tiến trình đáng khích lệ cho cộng đồng quốc tế, mang đến hy vọng cho một tương lai kinh tế tươi sáng và bền vững hơn, nhưng nó cũng gây ra các mối quan ngại. Hy vọng đến từ sự phát triển và cải thiện các điều kiện vật chất và văn hoá của cuộc sống trên phạm vi toàn cầu. Những quan ngại xuất phát từ sự bất bình đẳng gia tăng, cảnh bóc lột người nghèo và việc đánh mất bản sắc văn hoá. Trong thời đại toàn cầu hoá, sự liên đới giữa các dân tộc và giữa các thế hệ trở nên đặc biệt quan trọng. (TLHT 342, 362-367)

203. Làm thế nào để có thể thúc đẩy sự phát triển?

Phát triển không thể chỉ đánh đồng với tăng trưởng kinh tế. Để đạt đến sự phát triển – ngoài sự tăng trưởng kinh tế – cần phải có sự tham gia của một số thể chế nhất định: đầu tiên là gia đình, sau đó là giáo dục và chăm sóc y tế, bên cạnh những nhân tố khác. Một trong những nhiệm vụ của nền kinh tế quốc tế là đạt được một sự phát triển toàn diện và nhất quán cho toàn thể nhân loại, nghĩa là cho mọi người và cho toàn thể con người. Đó không phải là người giàu nhất thiết phải trở nên giàu hơn trong khi người nghèo trở nên nghèo hơn. Trong một hệ thống kinh tế xứng đáng với phẩm giá con người, sự thịnh vượng kinh tế cho một nhóm người cũng cải thiện các điều kiện cho mọi người. Sự phát triển trong các nước nghèo vì lý do này cũng có lợi cho các nước giàu nữa. (TLHT 373-374)

204. Kinh doanh có thể là một ơn gọi không?

Có.Thiên Chúa kêu gọi mọi người nên thánh một cách đặc biệt và theo từng cá nhân. “Kinh doanh là một ơn gọi cao quý, theo hướng tạo ra sự giàu có và cải thiện thế giới chúng ta. Nó có thể là một nguồn thịnh vượng dồi dào cho các vùng nó hoạt động, đặc biệt nếu nó tạo ra nhiều việc làm như một phần thiết yếu trong việc phục vụ công ích” (LS 129). Sử dụng tốt những món quà mà ta đã nhận được, bao gồm cả quà tặng vật chất, là một vấn đề công bằng. Đức Giêsu ca ngợi thái độ này trong dụ ngôn các nén bạc (x. Mt 25,14-30; Lc 19,11-27). (TLHT 326; LS 129)

205. Đức Giêsu thì nghèo. Vậy làm thế nào có thể theo Đức Kitô trong kinh doanh?

Kitô hữu được kêu gọi thực hành và truyền bá các nhân đức tin, cậy và mến – ngay cả trong thế giới kinh doanh. Bất cứ ai theo Đức Giêsu đều phải nhớ nghĩa vụ “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,21). Mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc sống không thể là tích luỹ của cải vật chất; đúng ra là hãy yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và đóng góp bằng tình yêu vào sự phát triển con người và xã hội. Tuỳ vào ơn gọi cá nhân của người nam hay người nữ, một phương cách để làm điều này là có thể thông qua một ơn gọi kinh doanh. (TLHT 326)

206. Thánh Kinh nói gì về sự giàu có và nghèo đói?

Thánh Kinh nói rằng chúng ta không nên khao khát làm giàu chỉ để giàu sang, nhưng khao khát những thứ của cải có thể tạo ra một cuộc sống hạnh phúc. Tiền bạc không bao giờ được trở thành thần tượng. Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Với những lời này, chúng ta xin Cha ban cho những gì cần thiết cho cuộc sống trần gian của chúng ta. Ta cầu xin những gì cần để nuôi sống cho gia đình ta, nhưng cũng cho những người nghèo và cho tất cả mọi người nam nữ trên thế giới. (TLHT 323-325)

207. Có phải nghèo thì luôn luôn xấu?

Khi nghèo đói không do tự nguyện và liên can đến sự khốn khổ và đến việc thiếu các nguồn lực căn bản, thì đó luôn là một sự dữ. “Sự nghèo đói trên thế giới là một sự xúc phạm. Trong một thế giới rất đỗi giàu có, có rất nhiều nguồn cung cấp thực phẩm cho mọi người, thật không thể hiểu được làm thế nào mà lại có biết bao trẻ em nghèo đói, có biết bao trẻ em không được học hành, có biết bao người nghèo khổ!” (Đức Phanxicô, Diễn từ cho các Sinh viên các Trường Dòng Tên của Ý và Albania, 2013).

Tuy nhiên, tình trạng tương đối nghèo mà không đe doạ tới phẩm giá của con người, lại có thể khiến cho mọi người nhận ra nhu cầu thật sự của họ trước Thiên Chúa, khiến họ quay về với Ngài và phó thác cho Ngài các nhu cầu của họ. Trong khi tất cả những ai muốn theo Đức Giêsu phải “có tinh thần nghèo khó” (Mt 5, 3), thì lại có những người tự nguyện từ bỏ sự giàu có để phục vụ Thiên Chúa với một trái tim tự do. Những người sống theo cách thức này làm chứng cho thế giới về ơn gọi của chúng ta là yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. (TLHT 324; EG 53)

208. Sự thịnh vượng có luôn luôn tốt không?

Sự thịnh vượng đến một mức độ nào đó thì tốt bởi vì ta có thể dành thời gian cho tình bạn, văn hoá và tôn giáo. Tuy nhiên, nó có thể dẫn đến những nguy hiểm về sự kiêu căng, ngạo mạn, và vô cảm với người khác. Một người giàu có thể nghĩ rằng sự sung mãn của mình chỉ là kết quả từ những nỗ lực của chính mình, chứ không có gì từ Thiên Chúa. Đức Giêsu đã cảnh báo niềm kiêu hãnh như vậy: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12,20). (TLHT 325)

209. Làm thế nào chúng ta có thể hiểu được lời của Đức Giêsu: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo” (Mt 6,34) – đây chẳng phải mâu thuẫn với tư duy kinh tế sao?

Không. Lo cho bản thân và người khác một cách khôn ngoan là phù hợp với những lời của Đức Giêsu; Đức Giêsu cũng sống với cung cách đó như một người thợ thủ công làm việc cho tha nhân. Mặt khác, quá lo lắng cho tương lai thật không phù hợp với sự phó thác của một người con Thiên Chúa. (GLHTCG 523)

210. Người Kitô hữu nên ứng phó thế nào với sự nghèo khó của chính mình?

Người Kitô hữu nên làm mọi thứ có thể về mặt luân lý để giải thoát bản thân và gia đình mình khỏi cảnh nghèo đói bằng cách kiên nhẫn và siêng năng làm việc. Đôi khi, cùng với những người khác, người đó cũng sẽ phải vượt qua các cấu trúc loại trừ vẫn cản trở sự thăng tiến của người nghèo. (TLHT 325)

211. Người Kitô hữu nên ứng phó với sự nghèo khó của người khác như thế nào?

Người Kitô hữu chia sẻ niềm vui và nỗi đau với tha nhân vì tất cả chúng ta đều là anh chị em của nhau. Ta phải cố gắng không chỉ thể hiện lòng trắc ẩn mà còn làm giảm bớt đau khổ của tha nhân mỗi khi có thể. Các cách cụ thể để đạt được nhiệm vụ này sẽ rất khác nhau đối với mỗi người. Nói chung, có hai cách tiếp cận với sự nghèo đói. Trước tiên, ta có thể giúp đỡ người nghèo trực tiếp thông qua các khoản đóng góp. Mặc dù điều này là cần thiết để đáp ứng nhu cầu trước mắt của những người trong hoàn cảnh khó khăn, ta cũng phải làm việc cùng với người nghèo để tìm ra các giải pháp lâu dài. Đây là cách tiếp cận thứ hai. Những giải pháp đó sẽ giúp cho người nghèo có thể thoát khỏi nghèo đói; ví dụ, bằng cách giúp họ tìm thấy việc làm và cung cấp việc đào tạo nghề và nền giáo dục đầy đủ. Các chủ doanh nghiệp góp phần quan trọng vào việc xoá đói giảm nghèo bằng cách tạo việc làm và các điều kiện làm việc xứng hợp. Mặc dù các nhu cầu là rất lớn, không ai phải cảm thấy bị đè nặng bởi các công việc của lòng thương xót và do đó được miễn trừ khỏi các công việc này. (TLHT 329; GLHTCG 2447)

212. Nước Thiên Chúa và sự tiến bộ trần thế có phải là một không?

Đức Giêsu nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Không nên nhầm lẫn Nước Thiên Chúa với sự tiến bộ vật chất hoặc trần thế. Tuy nhiên, “những tiến bộ này cũng có giá trị đối với Nước Thiên Chúa trong mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn” (GS 39). Ý thức về trách nhiệm của chúng ta trước Thiên Chúa đối với thế giới là một động lực to lớn để hoạt động cho sự phát triển toàn diện. (TLHT 55; GS 39)

213. Giáo hội Công giáo có đồng hoá mình với một mô hình kinh tế cụ thể như chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa tự do không?

Nói một cách tổng quát, Giáo hội ủng hộ một nền kinh tế thị trường bao gồm mọi người và mọi dân tộc, và nó được hướng dẫn bởi các nguyên tắc công bằng xã hội và bác ái. Tuy nhiên, Giáo hội không đồng hoá mình với bất kỳ mô hình kinh tế hoặc đảng chính trị cụ thể nào. Giáo hội không đề xuất “các giải pháp kỹ thuật”; Giáo hội đề xuất Phúc Âm. Qua các thế kỷ, rút ​​ra từ Phúc Âm, một số nguyên tắc cho cuộc sống xã hội đã được xây dựng, như tôn trọng phẩm giá con người, liên đới và bổ trợ. Kitô hữu hoạt động trong khu vực kinh tế được kêu gọi áp dụng các nguyên tắc này theo một lương tâm được đào tạo kỹ lưỡng. (TLHT 72)

Bài này đã được xem 1026 lần!

Pages ( 11 of 18 ): <1 ... 910 11 1213 ... 18>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]