214. Vậy Giáo hội không bao giờ can thiệp vào các vấn đề kinh tế chi tiết?
Nếu các quyền căn bản của con người hoặc sự cứu rỗi các linh hồn đòi hỏi, Giáo hội phải lên tiếng tố cáo các bất công và các lạm dụng xã hội. (GS 76; GLHTCG 2245-2246)
215. Giáo hội nói gì về chủ nghĩa tư bản?
Khi suy nghĩ về sự thất bại của việc kế hoạch hoá tập trung trong hệ thống Xô Viết, đức Gioan Phaolô II đã đề cập vấn đề liệu các nước có nên chấp nhận chủ nghĩa tư bản hay không: “Nếu” chủ nghĩa tư bản có nghĩa “là một hệ thống kinh tế nhìn nhận vai trò căn bản và tích cực của kinh doanh, thị trường, quyền tư hữuvà trách nhiệm về hậu quả đối với các phương tiện sản xuất, cũng như sự sáng tạo tự do của con người trong lĩnh vực kinh tế, thì câu trả lời chắc chắn là tích cực, mặc dù có lẽ sẽ phù hợp hơn khi nói về ‘nền kinh tế kinh doanh’, ‘nền kinh tế thị trường’ hoặc đơn giản là ‘nền kinh tế tự do’. Còn nếu hiểu chủ nghĩa tư bản là một hệ thống trong đó tự do kinh tế không hề bị giới hạn trong một khuôn khổ pháp lý vững chắc,nghĩa là một khuôn khổ pháp lý vừa đặt tự do kinh tế vào vai trò phục vụ tự do của con người xét như một tổng thể,vừa nhìn tự do kinh tế như một khía cạnh đặc biệt của tự do con người, vừa được xây dựng trên nền tảng đạo đức và tôn giáo,thì câu trả lời chắc chắn là không thể chấp nhận” (CA 42). (TLHT 335; CA 42)
216. Làm thế nào thay đổi trật tự kinh tế để phục vụ hiệu quả con người và công ích?
Mọi sự thay đổi xã hội bắt đầu với cá nhân, với sự đổi mới bên trong của chính người đó. Tuy nhiên, cộng đồng cũng có nhiệm vụ phải cải thiện các thể chế và cấu trúc xã hội của mình. Để đạt được mục tiêu này, cần có sự kết hợp giữa các đức tính cá nhân và các thể chế kinh tế và xã hội. Các thể chế kinh tế cần thiết sẽ nổi bật giữa những thứ khác, như tài sản tư nhân, tiền bạc, lợi nhuận và sự cạnh tranh trong thị trường tự do. Các thể chế xã hội cần thiết sẽ bao gồm cộng đồng chính trị mà người ta thuộc về. Trong các nhân đức, công bằng và tình yêu có tầm quan trọng đặc biệt. Những nhân đức này giúp mỗi người làm việc trung thực và minh bạch, và cũng thúc đẩy người đó thực hiện công việc tình nguyện và phi lợi nhuận. (TLHT 42, 343-345; GLHTCG 1888)
217. Giáo hội nói gì về tài sản cá nhân?
Mọi người đều có quyền tự nhiên đối với các thành quả lao động của mình và các phương tiện để đạt được những thành quả này. Trong trường hợp có một lượng lớn đất đai phi sản xuất và có rất nhiều người rất muốn được canh tác đất đai ấy thì đương nhiên người ta có “quyền được sở hữu một lượng đất đai hợp lý để có thể tạo lập nhà cửa, làm việc để nuôi sống gia đình và có một cuộc sống an toàn. Quyền này phải được đảm bảo để thi hành thật sự chứ không ảo tưởng. Như vậy có nghĩa là ngoài việc làm chủ tài sản, người nông dân phải được tiếp cận với các phương tiện giáo dục kỹ thuật, tín dụng, bảo hiểm và thị trường” (LS 94). (TLHT 176-184, GS 71; LS 94)
218. Đây có phải là một quyền tuyệt đối không?
Quyền có tài sản cá nhân này tạo nên sự tự do cho cá nhân bằng cách giúp họ được độc lập về mặt vật chất, thúc đẩy họ làm việc chăm chỉ và xác định rõ cái gì thuộc về người nào, từ đó góp phần vào sự thịnh vượng chung và an bình trong xã hội. Tuy nhiên, các bất bình đẳng nghiêm trọng có thể dẫn đến hậu quả là gây nên căng thẳng và bất công. Sự hơn hẳn về kinh tế của người này có thể đặt người kia vào vị thế thấp kém và bất lợi. Điều này có thể dẫn đến việc bóc lột trong các quan hệ lao động hoặc các quan hệ kinh tế nói chung. Vì lý do này, điều quan trọng là phải hiểu rằng tài sản cá nhân cũng thuộc “thế chấp xã hội”, có nghĩa là tài sản đó là để sử dụng cho công ích của tất cả mọi người, bởi vì Thiên Chúa tạo ra của cải vật chất cho mọi người. (TLHT 176-184, 328-329)
219. Thánh Kinh nói gì về tiền?
Tiền là một phương tiện trao đổi, là thước đo giá trị và đồ dự trữ cho tương lai. Do đó tiền chỉ là một phương tiện: bản thân nó không được trở thành cứu cánh. Đức Giêsu tuyên bố rõ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6,24). Tiền không bao giờ được trở thành thần tượng. Những ai chạy theo đồng tiền đều trở thành nô lệ của nó. Mặt khác, tiền có thể được dùng để phục vụ Thiên Chúa.(TLHT 328; EG 55)
220. Các công ty có được phép tạo ra lợi nhuận không?
Có. Lợi nhuận là một dấu hiệu căn bản nói nên sự thành công của một công ty, nhưng nó chưa đủ để là bằng chứng cho thấy công ty đang thật sự phục vụ xã hội. Để đạt được sự phát triển bền vững, việc theo đuổi lợi nhuận một cách hợp pháp phải phù hợp với việc bảo vệ phẩm giá con người một cách căn bản. Thật bất công nếu lợi nhuận đạt được bằng cách bóc lột hoặc vi phạm công bằng xã hội và quyền của người lao động. (TLHT 340)
221. “Thị trường tự do” có phải là một điều tốt?
Có. Trong một thị trường tự do, mọi người tự do cung cấp và mua hàng hoá và dịch vụ trong khuôn khổ pháp lý và đạo đức. Trong nền kinh tế thị trường, các người tiêu dùng xác định sẽ sản xuất những gì, bán với giá nào và số lượng bao nhiêu. Thị trường có đạo đức đã chứng tỏ bản thân thị trường có khả năng duy trì sự phát triển kinh tế bền vững trong dài hạn. Giáo hội coi trọng những lợi thế, mà thị trường tự do mang lại, trong việc sử dụng các nguồn lực tốt hơn. Tuy nhiên, có những cái gọi là “thị trường”,mà không đáng gọi bằng thuật ngữ này, bởi vì chúng không có đạo đức, như buôn bán ma tuý, buôn bán người, buôn bán vũ khí bất hợp pháp, v.v. (TLHT 347)
222. Thị trường tự do không thể hoạt động nếu không có cạnh tranh. Nhưng chẳng phải cạnh tranh làm cản trở bác ái Kitô giáo sao?
Điều đó còn tuỳ. Cạnh tranh là mong muốn với tinh thần thượng võ vượt qua đối thủ và là một phương tiện hiệu quả để đạt được các mục tiêu quan trọng của công bằng: hạ giá, cải thiện việc các nhà doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và sử dụng các nguồn lực có trách nhiệm hơn. Cạnh tranh là phần thưởng cho nỗ lực của công ty, cho sự đổi mới, cho các kỹ năng, v.v. Theo nghĩa này, cạnh tranh là tốt đẹp. Tuy nhiên, thật là tệ hại nếu cạnh tranh được thực hiện bằng các biện pháp không công bằng hoặc bất chính (ví dụ: lừa đảo), nếu sử dụng các quy tắc luật lệ để ưu đãi cách bất công cho một trong những đối thủ cạnh tranh hoặc khi nó được truyền cảm hứng bởi lòng thù hận. (TLHT 347; CV 66)
223. Vậy có phải thị trường tự do không bị giới hạn và không có mục đích nào khác ngoài việc kiếm tiền?
Không. Thị trường phải tuân theo các điều kiện và giới hạn về đạo đức, pháp lý và văn hoá. Ví dụ, có nhiều thứ vô giá không thể mua bán: con người, nội tạng của họ, và ngay cả tình bạn, sự tha thứ, các mối quan hệ gia đình, v.v. Con người và nhu cầu của con người là mục tiêu của thị trường. Thật không may, nhiều người không có quyền tiếp cận thị trường và không thể đáp ứng những nhu cầu căn bản nhất của họ. Trong những trường hợp này, ta phải nhớ rằng giá trị và cái đáng giá của một con người không phụ thuộc vào việc “có một cái gì đó”, nhưng chỉ đơn thần xuất phát từ thực tế người đó “là một ai đó”: một con người, anh chị em của chúng ta với phẩm giá nội tại. “Đáp ứng các nhu cầu căn bản của con người và không để cho những người thiếu thốn các nhu cầu đó bị diệt vong là một nghĩa vụ nghiêm ngặt về công bằng và sự thật” (CA 34). (TLHT 348-350; CA 34)
224. Có phải chính phủ cũng đóng một vai trò trong nền kinh tế?
Phải. Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Các hành động của chính phủ phải cân bằng, không can thiệp quá sâu nhưng cũng không quá dè dặt và phải tôn trọng nguyên tắc bổ trợ. Điều này có nghĩa là nhiệm vụ chính của chính phủ hoặc Nhà nước trong nền kinh tế là tạo các điều kiện thuận lợi để tự do thực hiện hoạt động kinh tế, chủ yếu bằng cách tạo khung pháp lý cho hoạt động kinh tế và bằng cách giúp phát huy tinh thần tự lực cánh sinh. Chính phủ nên khuyến khích hợp tác trong “các đơn vị nhỏ”, chẳng hạn như gia đình, công ty và cộng đồng địa phương, không làm thaynhững đơn vị này, mà để cho họ hoàn thành nhiệm vụ bằng nỗ lực của mình càng nhiều càng tốt. Khi họ không thể tự lực cánh sinh, Nhà nước nên hành động theo nguyên tắc liên đới và bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất. (TLHT 336-337, 351-355; LS 129)
225. Có các tổ chức khác hoạt động trên thị trường, ngoài các lĩnh vực công cộng và tư nhân?
Càng ngày càng có nhiều tổ chức hoạt động trong xã hội dân sự dựa trên các nguyên tắc kinh tế, được hình thành và quản lý bởi các nhóm tư nhân đã theo đuổi các mục tiêu vì ích lợi cộng đồng. Có thể tìm thấy nhiều ví dụ trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ người bệnh và người già, các nhóm cùng khu phố, các nhóm bảo tồn và bảo vệ môi trường, v.v. Những hoạt động này phát triển tình liên đới và đặc biệt quan trọng đối với kết cấu xã hội. (TLHT 357; CV 39-40)
226. Doanh nghiệp là gì?
Một doanh nghiệp hay công ty là một đơn vị sản xuất bao gồm con người, thiết bị, địa điểm, tiền bạc, v.v.; nhưng, trên hết, công ty là một “hội gồm các con người” (CA 43). Một doanh nghiệp phải phục vụ mọi người bằng cách sản xuất hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ thật sự tốt và hữu ích. (TLHT 338; CA 43)
227. Thế nào là tương quan giữa các công ty, tinh thần doanh nghiệp và đức tính?
“Khi được quản lý tốt, các doanh nghiệp tích cực nâng cao phẩm giá của các nhân viên và phát triển các nhân đức, như liên đới, khôn ngoan thực tiễn, công bằng, kỷ luật và nhiều nhân đức khác. Trong khi gia đình là trường học đầu tiên của xã hội, thì doanh nghiệp, giống như nhiều thể chế khác, tiếp tục giáo dục mọi người về nhân đức” (VBL 3). (VBL 3)
228. Thành công có phải là ưu tiên hàng đầu trong kinh doanh?
Tất nhiên. Trước tiên, thành công cốt yếu ở chỗ tạo ra lợi nhuận cách hiệu quả, nhưng nó không bị giới hạn ở điểm này. Một doanh nghiệp thật sự thành công chỉ khi nó tạo ra một giá trị bền vững thật sự cho mọi người và cho xã hội, nghĩa là, sự an lạc thể chất, tinh thần, tâm lý, luân lý và tâm linh của tha nhân. Doanh nghiệp phân phối lại một phần lợi nhuận sau khi tài sản được tạo ra thì chưa đủ, nhưng trước hết cần phải tạo ra giá trị nhân bản, xã hội và môi trường như kết quả trực tiếp của hoạt động kinh tế và việc tạo ra của cải. Thành công theo nghĩa đầy đủ của từ ấy, là “gắn bó chặt chẽ với sự an lạc ngày càng mở rộng hơn về khái niệm” (VBL 51). (TLHT 332, 339-340)
229. Tín nghĩa có quan trọng trong kinh doanh không?
Có. Tín nghĩa rất quan trọng cho hoạt động kinh tế. Không có nó, ta sẽ không dám ký hợp đồng, mua sản phẩm hoặc gia nhập công ty. Tín nghĩa có được thông qua sự tin cậy và hành vi đạo đức, và bị tội lỗi phá huỷ. (TLHT 343)
230. Những nhân đức nào đặc biệt quan trọng trong kinh tế?
Các nhân đức là những nét tích cực của tính cách giúp ta nhận ra điều thiện và hoàn thành nó với sự tự do nội tâm và niềm vui. Những nhân đức quan trọng nhất của con người là khôn ngoan, công bằng, dũng cảm và tiết độ. Ngoài ra, cùng với ân huệ thánh hoá của Ngài, Thiên Chúa ban cho chúng ta ba nhân đức đối thần là tin, cậy, mến. Chúng ta cần tất cả những thứ này cho nền kinh tế, nhưng cách riêng, đức công bằng và đức mến thì quan trọng trong lĩnh vực này. (TLHT 327, 343; YC 299-309)
231. Làm thế nào hành xử công bằng trong kinh tế?
Ta hành xử công bằng bằng cách trả lại cho tha nhân những gì thật sự là của họ. Trong kinh tế, điều này chủ yếu ở chỗ hoàn thành trung thực các hợp đồng, tôn trọng các thoả thuận, giao hàng đúng hẹn trong tình trạng tốt và thanh toán đúng thời hạn quy định. Để được công bằng, các hợp đồng phải tự do kết ước, nghĩa là các bên ký kết không có sự lừa dối, sợ hãi hay ép buộc. Bất bình đẳng kinh tế lớn có thể dẫn đến bất công nếu đối tác đàm phán có nhiều quyền lực hơn để áp đặt các điều kiện trên đối tác bên kia. (GLHTCG 2411)
232. Khi nào giá cả là phù hợp hay chính đáng?
Về nguyên tắc, giá cả phù hợp hay chính đáng khi nó là kết quả của các cuộc đàm phán tự do trong sự tương tác giữa cung và cầu. Tuy nhiên, nhiều yếu tố có thể làm sai lệch thoả thuận tự do này: gian lận, thiếu thông tin, độc quyền của người bán hoặc người mua, nhu cầu cực đoan của một trong các đối tác, v.v… Tất cả các hình thức bóc lột đó, cùng với lãi suất cắt cổ (cho vay nặng lãi), là các tội nghịch với đức công bằng. (TLHT 341, GLHTCG 2414)
233. Tình yêu xác định gia đình và tình bạn. Có phải tình yêu cũng vận hành trong kinh tế?
Phải. Các giá trị của sự thật, công bằng và tự do được sinh ra và phát triển từ tình yêu. Không có tình yêu, công bằng trở nên cứng cỏi và cay đắng. Nền kinh tế không phải là một cỗ máy vô tâm, hoạt động theo cơ chế pháp luật, mà là một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa những người có trách nhiệm với nhau. (TLHT 204-208)
234. Có các ví dụ về điều này không?
Có nhiều lắm. Nhiều người chủ và nhân viên vượt lên trên và ra ngoài những gì họ được yêu cầu. Họ làm như vậy vì ý thức trách nhiệm và tình yêu dành cho công việc của họ và cho những người phụ thuộc vào các dịch vụ họ làm. Đầu tư cũng có thể là một hành động quảng đại vì đầu tư có nghĩa là hy sinh tiêu dùng tức thời và sử dụng ngân quỹ để tạo việc làm. Các doanh nghiệp phi lợi nhuận theo đuổi các mục tiêu xã hội với tinh thần kinh doanh có thể là một biểu hiện khác của sự quảng đại, công bằng và bác ái. (TLHT 356-357)
235. Trong thế giới kinh tế, những tội lỗi nào phải tránh?
Nên tránh mọi tội lỗi, luôn luôn và ở mọi nơi, trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, cho dù trong kinh doanh, chính trị, hoặc cuộc sống riêng tư của ta. Đây không phải là một tiêu chuẩn không thể thực hiện được hoặc không thực tế, nhưng là điều kiện tiên quyết cho một cuộc sống hạnh phúc trong xã hội. Trong đời sống kinh tế, ta phải ý thức đặc biệt về sự tham lam, tham nhũng và mọi hình thức bất công như trộm cắp, lừa đảo,cho vay nặng lãi, bóc lột, v.v. (GLHTCG 2408-2414)
236. Có phải các thị trường tài chính, ngân hàng và các quỹ đầu cơ là các cơ cấu tội lỗi?
Không. Nếu chúng hướng tới công ích thì thị trường tài chính và ngân hàng cung cấp một dịch vụ quan trọng: cung cấp tiền theo yêu cầu của các doanh nghiệp và nền kinh tế (vốn tài chính). Vì lý do này, khách nợ phải trả lãi như là giá cả cho tính khả dụng của thanh khoản. Đầu cơ cũng có thể tốt, trong chừng mực tạo ra sự cân bằng giữa số lượng và giá cả giữa các vùng và giữa các giai đoạn thiếu hụt và dư thừa. Rủi thay, các công cụ tài chính này thường được sử dụng không đúng và vô trách nhiệm, và do đó mất liên kết với nền kinh tế thực. Các thị trường tài chính bị lạm phát vì việc mở rộng tiền tệ và tín dụng cách vô trách nhiệm. (TLHT 368)
237. Làm thế nào cải thiện tình hình?
Cần hoán cải tâm hồn và tuân thủ các nguyên tắc đạo đức. Hiện tình cũng đòi hỏi sự minh bạch hoàn toàn về các hoạt động và các điều tiết hợp pháp của thị trường tài chính quốc tế trong một khung pháp lý thống nhất có tính ràng buộc. (TLHT 369-372)
Chủ đề đặc biệt: Lão hoá
ELIZABETH REICHERT
238. Tại sao lão hoá là một chủ đề quan trọng trong thế giới ngày nay?
Trong khi các khu vực rộng lớn trên thế giới tiếp tục chứng kiến sự gia tăng dân số ổn định, nhiều quốc gia, đặc biệt là ở thế giới phương Tây, đang trải nghiệm một sự dịch chuyển gây ấn tượng sâu sắc về nhân khẩu học dân số. Khi tỷ lệ sinh suy giảm và tuổi thọ gia tăng, dân số nhanh chóng lão hoá; điều này có nghĩa là tỷ lệ người trong độ tuổi lao động giảm xuống trong khi tỷ lệ người nghỉ hưu tăng lên. Như đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhận xét, “sự lão hoá dân số thế giới chắc chắn sẽ là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của thế kỷ XXI” (Gioan Phaolô II, Thư gửi Chủ tịch Hội đồng Thế giới lần thứ hai về sự Lão hoá, 2002).
Bài này đã được xem 1008 lần!