CẨM NANG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

239. Một số vấn đề liên quan đến sự lão hoá là gì?

Ở cấp độ văn hoá và nhân bản, người cao tuổi không chỉ đối mặt với bệnh tật và đau khổ do tuổi tác mà còn bị cô lập và bỏ rơi. Như đức Giáo hoàng Phanxicô đã tuyên bố, “sự thiếu thốn nghiêm trọng nhất mà người cao tuổi trải qua không phải cơ thể suy yếu và các khuyết tật có thể xảy ra, mà là bị bỏ rơi, loại trừ và sự thiếu thốn tình yêu” (Đức Phanxicô, Sứ điệp gửi Đại hội Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống, 2014). Ở cấp độ kinh tế, sự lão hoá dẫn đến việc gia tăng thiếu hụt trong các hệ thống lương hưu và tăng chi phí chăm sóc sức khoẻ.

240. Vấn đề này nên được giải quyết như thế nào?

Trước hết, “vấn đề” không phải là số người già: “Không bao giờ được coi người già là gánh nặng cho xã hội, mà là một nguồn lực đóng góp cho sự an lạc của xã hội” (Gioan Phaolô II, Thư gửi Chủ tịch Đại hội đồng Thế giới lần thứ hai về sự Lão hoá, 2002). Đó không chỉ đơn thuần là vấn đề ta có thể làm gì cho người già, mà là ta có thể làm gì với người già. Để xây dựng một nền văn hoá đề cao phẩm giá của mỗi con người, “việc quảng bá một thái độ rộng rãi chấp nhận và tán thưởng người già, chứ không đưa họ ra ngoài lề, sẽ càng ngày càng trở nên quan trọng hơn” (LEld 13). (TLHT 222)

241. Chúng ta nên đối xử với người già như thế nào?

Chúng ta nên tôn vinh họ, như chính Thiên Chúa truyền lệnh: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được thịnh vượng trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi” (Đnl 5,16). “Tôn vinh người già bao gồm một bổn phận ba mặt: chào đón họ, giúp đỡ họ và sử dụng tốt các phẩm tính của họ” (LEld 12).

242. Cách chúng ta đối xử với người già, người bệnh và người tàn tật có phải là thước đo tính nhân bản của một xã hội không?

Phải. “Một xã hội thật sự đón chào sự sống khi nhận ra rằng sự sống cũng quý giá ở người già, người khuyết tật, người bệnh nặng và ngay cả khi sự sống suy tàn; khi xã hội dạy rằng lời kêu gọi trở thành một con người trọn vẹn không loại trừ đau khổ; thật vậy, khi xã hội dạy các thành viên của mình nhận ra được trong bệnh tật và đau khổ một món quà cho toàn thể cộng đồng, một sự hiện diện quy tụ họ đến với tình liên đới và trách nhiệm. Đó là Phúc Âm sự sống …” (Đức Phanxicô, Sứ điệp gửi Đại hội Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống, 2014).

243. Giáo hội có đưa ra giải pháp nào cho các vấn đề xung quanh hệ thống hưu trí không?

Mặc dù không có vai trò đưa ra các đề nghị cụ thể, Giáo hội vẫn đề ra các nguyên tắc quan trọng có liên quan. Trước hết, “khi trả lời câu hỏi này, ta không được để cho mình bị hướng dẫn chủ yếu bởi các tiêu chí kinh tế; trái lại, ta phải được truyền cảm hứng bởi các nguyên tắc luân lý” (GioanPhaolô II, Thư gửi Chủ tịch Đại hội Thế giới lần thứ Hai về sự Lão hoá, 2002). Cụ thể hơn, vấn đề này đòi hỏi áp dụng đúng đắn cả nguyên tắc liên đới lẫn bổ trợ. Một mặt, nguyên tắc liên đới thúc đẩy ta nhìn nhận phẩm giá của mỗi người thay vì đánh giá của họ chỉ dựa trên tiện ích. Nguyên tắc này kêu gọi ta để ý đến các anh chị em của ta, để họ nhận được sự chăm sóc cần thiết. Mặt khác, liên đới mà không có bổ trợ sẽ dẫn đến một “Nhà nước phúc lợi”. Sự can thiệp của Nhà nước, khi công ích yêu cầu, cũng nên được giới hạn, và nên hỗ trợ các gia đình và cộng đồng ở cấp thấp hơn vì “các nhu cầu của người già được hiểu rõ và đáp ứng tốt nhất bởi những người gần gũi nhất với họ” (CA 48). (TLHT 187-188, CA 48)

8. Đời sống Chính trị: Hoà bình, Tự do và Công bằng trong Xã hội

MARTIN SCHLAG

Một Kitô hữu tốt tham gia tích cực vào sinh hoạt chính trị và cầu nguyện cho các chính trị gia để họ có thể yêu thương và khiêm tốn phục vụ đồng bào.

XEM GIÁO HOÀNG PHANXICÔ, SUY NIỆM SÁNG,

16 THÁNG 9 NĂM 2013

Các quốc gia thời hiện đại rất phức tạp. Nền chính trị và các chính trị gia có ơn gọi cao cả là phục vụ công ích của đất nước họ. Sự phục vụ của họ là một phương cách thực hành bác ái. Giáo hội không đồng hoá mình với một đảng phái chính trị nào và cũng không ủng hộ một đường lối cụ thể; đúng hơn, Giáo hội loan báo những nguyên tắc và giá trị quy định sinh hoạt chính trị hướng đến nền tảng và mục đích của nó: con người.

244. Chính trị tốt để làm gì?

Mọi người sống trong các cộng đồng: gia đình, hiệp hội, hàng xóm láng giềng, v.v. Ở cấp cao nhất của tổ chức xã hội, ta sống trong các quốc gia. Chính trị phục vụ để đoàn kết và tập hợp muôn người với các nhu cầu và lợi ích khác nhau, nhằm mưu tìm công ích cho họ.

245. Thế nào là một quốc gia?

Một quốc gia bao gồm một nhóm người sống cùng nhau trong một lãnh thổ chung và được cai trị bởi một chính quyền. Các quốc gia cũng gọi là các Nhà nước.

246. Có những hình thức quốc gia hay Nhà nước nào?

Có những chế độ quân chủ, trong đó chính quyền được thực thi chỉ bởi một người, là quốc vương. Có những tầng lớp quý tộc, trong đó chính quyền được chia sẻ giữa một nhóm cầm quyền nhỏ. Và có những chế độ dân chủ, trong đó chính quyền thuộc về toàn dân. Người dân thực thi quyền lực của mình một cách gián tiếp thông qua các đại biểu hoặc trực tiếp bằng cách bỏ phiếu.

247. Đức Giêsu dạy gì về chính trị?

“Đức Giêsu nói với họ: ‘Hãy trả lại cho Caesar những gì thuộc về Caesar và trả lại Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa’” (Mc 12,17; x. Mt 22,15-22; Lc 20,20-26). Khi khẳng định điều này, Đức Giêsu đã ngầm lên án “mọi toan tính biến quyền lực trần gian thành quyền lực thần linh hoặc tuyệt đối: chỉ có Thiên Chúa mới có quyền đòi hỏi mọi sự từ phía con người. Đồng thời quyền lực trần gian cũng được quyền đòi những gì thuộc về mình: Đức Giêsu không coi việc nộp thuế cho hoàng đế Caesar là chuyện bất công” (TLHT 379). (TLHT 379)

248. Thánh Phaolô và các nhân chứng Thánh Kinh khác viết gì về chính trị?

Chúng ta nên tuân phục chính quyền hợp pháp “vì lương tâm” (Rm 13,5), như một trật tự do Thiên Chúa thiết lập. Vị Tông đồ chắc chắn không có ý định hợp pháp hoá mọi quyền lực hiện hữu, mà chỉ dạy rằng quyền lực chính trị phải bảo đảm “cho chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh” (1Tm 2,2). (TLHT 380-381)

249. Tóm lại, toàn bộ Thánh Kinh dạy gì về chính quyền?

“Sứ điệp Thánh Kinh đã tạo cảm hứng không ngừng cho các Kitô hữu suy nghĩ về quyền lực chính trị, đó là phải nhớ rằng quyền lực này xuất phát từ Thiên Chúa và là một thành phần trong toàn bộ trật tự Ngài đã dựng nên. Trật tự ấy được lương tâm con người nhận thức, còn trong đời sống xã hội, trật tự ấy được hoàn thành trong sự thật, công bằng, tự do và liên đới, để rồi từ đó đem lại hoà bình” (TLHT 383). (TLHT 383)

250. Cơ sở và mục đích của chính quyền là gì?

Nền tảng và mục đích của tất cả sinh hoạt và hoạt động chính trị là con người. Cộng đồng chính trị dựa trên luật luân lý mà Thiên Chúa đã ghi khắc vào bản chất con người chúng ta. Lương tâm của ta tỏ lộ trật tự luân lý này cho ta, và sự vâng phục trật tự luân lý là chìa khoá để đạt được công ích. (TLHT 384)

251. Tôi không thể tự làm cho mình hạnh phúc sao? Hay tôi phải sống trong một cộng đồng chính trị?

Mỗi người trong chúng ta được tự do theo đuổi hạnh phúc của chính mình. Tuy nhiên, sống trong một quốc gia – nghĩa là sống trong một cộng đồng chính trị – là điều tự nhiên đối với chúng ta. Điều đó giúp ta đạt được sự phát triển đầy đủ của mình với tư cách là các nhân vị. Bằng cách hợp tác trong việc đạt đến công ích, ta thăng hoa: nhân vị không chỉ là một cá nhân tự chủ có xu hướng tìm các lợi ích của riêng mình mà còn trở thành chính mình trong tương quan với tha nhân. (TLHT 384)

252. Làm thế nào có thể định nghĩa người dân của một quốc gia?

Các đặc điểm quan trọng nhất của một dân tộc là cùng nhau chia sẻ cuộc sống và các giá trị, đây chính là nguồn của sự hoà hợp trên cấp độ tâm linh và luân lý. (TLHT 386)

253. Một quốc gia nên cấp gì cho người dân?

Mục đích của đời sống chính trị là đạt được công ích, bao gồm hoà bình, tự do và công bằng cho tất cả mọi người. Chính quyền của một quốc gia phải công nhận và tôn trọng phẩm giá con người bằng cách bảo vệ và thăng tiến các quyền căn bản và bất khả chuyển nhượng của con người, các quyền này không thể hy sinh vì công ích. Điều cũng cần thiết là mỗi công dân phải hoàn thành bổn phận tương ứng của mình. (TLHT 388-389)

254. Nhân quyền là gì?

Nhân quyền tạo nên sự bảo vệ chống lại quyền lực của chính phủ. Chính quyền không được xâm phạm vào một số lĩnh vực của cuộc sống: sự sống, tự do, tài sản, tín ngưỡng, lương tâm, v.v. Theo dòng thời gian, nhiều quyền như thếđã được phát huy. Kể từ Thế chiến Thứ hai, một loại nhân quyền mới liên quan đến việc bảo vệ và an ninh xã hội đã phát triển. “Các quyền” như vậy nên được gọi là “các chuẩn mực lập trình” hoặc các mục tiêu chính trị. Sở dĩ có điều này là vì chúng không thể được đòi hỏi theo cách thức của luật pháp (ví dụ, người ta không thể yêu cầu chính phủ cung cấp một công việc), nhưng đúng hơn, chúng được dùng như các mục tiêu cho các chính sách sẽ thúc đẩy chính quyền đạt được. Chúng bao gồm quyền lao động, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, v.v.

255. Nguồn gốc của nhân quyền là gì và điều gì là các đặc trưng của chúng?

Nhân quyền bắt nguồn từ phẩm giá của mỗi con người và mọi con người. Những quyền này là phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả chuyển nhượng. Vì chúng không được ban cho bởi ý chí đơn thuần của con người, bởi chính quyền hoặc Nhà nước, nên không ai có thể bị tước đoạt các quyền con người của mình. Trái lại, các cá nhân phải tôn trọng quyền con người của tha nhân, và cơ quan công quyền phải bảo đảm những quyền này. (TLHT 153)

256. Giáo hội có công bố nhân quyền không?

“Giáo hội dựa vào Phúc Âm đã được uỷ thác cho mình mà công bố những quyền của con người” (GS 41). Bằng cách thừa nhận các quyền con người, Giáo hội nhìn thấy một cơ hội phi thường để công nhận phẩm giá con người cách hiệu quả hơn và cổ vũ cho nó phổ biến hơn như một đặc điểm được Thiên Chúa Đấng Tạo Hoá khắc ghi trên mỗi người nam và người nữ. (TLHT 152)

257. Khi chỉ đòi hỏi quyền lợi cho bản thân lại không phải là ích kỷ sao?

Đúng. Thật ra, Giáo hội nhấn mạnh mối liên hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Thật là mâu thuẫn khi đòi quyền lợi cho chính mình mà chối bỏ quyền của những người khác. Mỗi quyền đều đòi hỏi một trách nhiệm tương ứng. “Bởi đó, những ai đòi hỏi quyền lợi mà quên hay bỏ qua không thi hành các bổn phận tương ứng của mình là những người tay này xây dựng nhưng tay kia lại phá hoại” (TLHT 156, trích dẫn PT 30). Một sự khẳng định quyền lợi quá mức có thể làm phát sinh chủ nghĩa cá nhân cực đoan mà không ngó ngàng đến công ích. (TLHT 156, 158)

258. Người thiểu số có quyền đặc biệt trong một quốc gia không?

Giáo hội khẳng định rằng người thiểu số có các quyền lợi và bổn phận rõ ràng, và trên hết là quyền tồn tại. Hơn nữa, người thiểu số có quyền duy trì nền văn hoá của họ, bao gồm cả ngôn ngữ riêng và các niềm tin tôn giáo của họ, bao gồm cả các công việc thờ phượng. (TLHT 387)

259. Giáo hội dạy gì về dân chủ?

“Giáo hội đánh giá cao hệ thống dân chủ, xét như một hệ thống bảo đảm cho người công dân được quyền tham gia vào các lựa chọn chính trị, đồng thời bảo đảm cho những người ở dưới quyền cai trị vừa được quyền chọn lựa và kiểm soát những người cai trị mình, vừa được quyền thay đổi họ bằng những phương thế ôn hoà khi cần thiết” (CA 46). (TLHT 406; CA 46)

260. Trong một nền dân chủ, luật do đa số làm ra. Về phương diện luân lý, đa số có thể thông qua bất kỳ luật nào họ muốn không?

Không, một nền dân chủ không được phá huỷ các giá trị nền tảng mà trên đó nó được xây dựng. Đó là: “phẩm giá của mỗi con người, việc tôn trọng quyền con người, [và] việc dấn thân cho công ích như thể là mục đích và tiêu chí hướng dẫn sinh hoạt chính trị. Nếu không có sự đồng thuận chung về các giá trị này, ý nghĩa sâu sắc nhất của dân chủ bị mất đi và tính ổn định của dân chủ bị tổn hại” (TLHT 407). (TLHT 397-398, 407)

261. “Thuyết tương đối về đạo đức” là gì?

Thuyết tương đối về đạo đức là tin rằng không có tiêu chí khách quan hay phổ quát để thiết lập các chuẩn mực luân lý. Theo Học thuyết Xã hội của Giáo hội, thuyết tương đối về đạo đức là một trong những mối đe doạ lớn nhất đối với các nền dân chủ hiện đại. (TLHT 407)

262. Ngoài các giá trị quan trọng của nhân phẩm và quyền con người, còn có gì khác mà nền dân chủ cần có để tồn tại?

Có. Dân chủ cần các thể chế. Các thể chế này bao gồm các cuộc bầu cử tự do và phổ thông, sự phân chia quyền lực, trách nhiệm của chính trị gia đối với người dân, các thẩm phán độc lập và vô tư, và nền hành chính công hợp pháp. Giáo hội thừa nhận tầm quan trọng của những thể chế này. (TLHT 408)

263. Các đảng chính trị có quan trọng đối với dân chủ không?

Có. Các đảng chính trị có lợi cho nền dân chủ. Chúng“có nhiệm vụ tạo điều kiện cho có sự tham gia chính trị rộng rãi và cho mọi người có thể tiếp cận với các trách nhiệm chung” (TLHT 413). Các đảng này phải luôn mưu tìm công ích cho toàn thể quốc gia, chứ không chỉ tìm lợi ích cho các cử tri của họ. (TLHT 413)

264. “Xã hội dân sự” là gì?

Xã hội dân sự liên quan đến những mối quan hệ và các nguồn lực tương đối độc lập với lĩnh vực chính trị và chưa bị Nhà nước khống chế. Nó bao gồm mạng lưới các quan hệ con người, các hiệp hội, các đoàn thể và tổ chức có mục đích xã hội nhưng không do chính phủ điều hành. Nguyên tắc bổ trợ bảo vệ sự toàn vẹn của xã hội dân sự. Liên đới cũng tìm thấy ngôi nhà tự nhiên của mình trong xã hội dân sự, vì nó xây dựng nên toàn bộ xã hội, bao gồm cả lĩnh vực chính trị. (TLHT 417-420; CV 39)

265. Có một sự khác biệt giữa quyền lực chính trị và chính quyền không?

Có. Quyền lực là sức mạnh có thể được sử dụng cho cả thiện và ác. Chính quyền là quyền lực chỉ hướng đến công ích.

266. Khi nào thì quyền lực chính trịđược thực thi một cách hợp pháp?

“Quyền bính được thực thi một cách hợp pháp khi hoạt động vì công ích và sử dụng các biện pháp được phép về mặt luân lý để đạt được công ích ấy” (TYGLHT406). Chính quyền phải bảo đảm một sinh hoạt cộng đồng có trật tự không tước đoạt hoạt động tự do của các cá nhân và các nhóm. Khi đưa quyền tự do này vào công ích, chính quyền phải tôn trọng và bảo vệ sự độc lập của các chủ thể cá nhân và xã hội. (TLHT 394)

267. Có phải pháp luật và mệnh lệnh công minh mới ràng buộc về mặt luân lý?

Phải. Khi chính quyền ban hành pháp luật, luật lệ và mệnh lệnh công minh, ta có nghĩa vụ phải tuân thủ từ trong lương tâm. Nếu bất tuân, ta “chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra” (Rm 13,2) và phạm tội. (TLHT 398)

268. Tại sao chính quyền có thể tạo ra các luật ràng buộc về mặt luân lý? Sức mạnh luân lý của quyền lực lập pháp này đến từ đâu?

Tất cả sức mạnh luân lý của chính quyền xuất phát từ việc nó được thực thi cho các mục đích tốt và bằng cách sử dụng các phương tiện không chỉ hiệu quả mà còn được chấp nhận về mặt luân lý. Chính quyền “nên áp dụng nguyên tắc ‘Nhà nước pháp quyền’ trong đó luật pháp là tối thượng chứ không phải ý muốn độc đoán của một số người. Các luật lệ bất công và các biện pháp trái nghịch với trật tự luân lý đều không bó buộc lương tâm con người” (TYGLHT 406). Trong trường hợp đó, chúng không còn là luật pháp, và thay vào đó, trở thành những hành vi bạo lực. (TLHT 396, 398)

269. Công dân nên phản ứng thế nào với các luật lệ vô luân?

“Các công dân không bị buộc trong lương tâm phải theo những chỉ thị của chính quyền dân sự nếu những mệnh lệnh ấy trái ngược với những đòi hỏi của trật tự luân lý, trái ngược với những quyền căn bản của con người hay trái ngược với giáo huấn của Tin Mừng” (TLHT 399). Khi những người ngay chính về mặt luân lý được kêu gọi hợp tác trong các hành vi xấu về mặt luân lý, họ phải từ chối. Không hợp tác trong các thực hành trái với luật của Thiên Chúa, mặc dù pháp luật dân sự cho phép, là một bổn phận nghiêm trọng của lương tâm. (TLHT 399)

Bài này đã được xem 1010 lần!

Pages ( 13 of 18 ): <1 ... 1112 13 1415 ... 18>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]