CẨM NANG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

270. Công dân có quyền phản kháng chính quyền không?

“Việc phản kháng chính quyềnvi phạm các nguyên tắc thiết yếu của luật tự nhiên một cách nghiêm trọng hay liên tục là chính đáng” (TLHT 400). Mặc dù Giáo hội khuyến nghị phản kháng thụ động, việc kháng chiến vũ trang có thể là chính đáng để chống lại sự chuyên chế rõ ràng, gây thiệt hại lớn cho các quyền cá nhân căn bản và cho công ích của đất nước. (TLHT 400-401)

271. Quyền tư pháp có vai trò gì?

Vai trò của quyền tư pháp, được thực thi bởi các thẩm phán độc lập tại các toà án, là đem lại công lý cho các công dân theo pháp luật. Các thẩm phán phải tìm kiếm sự thật một cách vô tư, và hành xử công bằng cho mỗi bên theo đúng pháp luật. Các vụ việc nên xử lý càng nhanh càng tốt. Tranh chấp pháp lý giữa các bên chống đối nhau là không thể tránh khỏi trong bất kỳ xã hội nào, nhưng trong việc hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, các thẩm phán mang lại hoà bình và hoà hợp cho người dân của một nước. (TLHT 402)

272. Các thẩm phán cũng bị đòi phải trừng phạt tội phạm không?

Phải. Tại các toà án hình sự, các thẩm phán phải trừng phạt những phạm nhân đã bị kết án trong một phiên toà xét xử tốt đẹp và công minh theo pháp luật. Hình phạt chỉ công minh nếu dựa trên văn bản luật được ban hành trước hành viphạm tội. Hơn nữa, phải chứng minh một cách hợp lý rằng đương sự thật sự phạm tội.

273. Mục đích của hình phạt hình sự là gì?

Việc trừng phạt các phạm nhân nhằm mục đích khôi phục trật tự của công lý, bảo vệ trật tự công cộng, và bảo đảm sự an toàn của con người. Hơn nữa, đó là một công cụ nhằm cải hoá người phạm tội. Cách thức trừng phạt tội phạm phải thực thi làm sao cho việc tái hội nhập người bị kết án vào xã hội được dễ dàng. (TLHT 403)

274. Bị cáo và tù nhân nên được đối xử như thế nào?

Các người bị kết án và tù nhân phải được đối xử xứng hợp với nhân phẩm của họ. Không được đối xử thấp kém so với phẩm giá của họ. Không ai có thể bị cầm tù mà không xét xử, và không được trì hoãn việc xét xử. “Các viên chức toà án được đặc biệt yêu cầu hãy giữ sự cẩn mật phải có khi tiến hành điều tra, để không xâm phạm các quyền được giữ bí mật của bị cáo và để không làm suy giảm nguyên tắc suy đoán vô tội” (TLHT 404). (TLHT 404)

275. Tra tấn có thể dùng trong các trường hợp cực đoan?

Không. Không bao giờ được dùng biện pháp tra tấn. Cả hoàn cảnh lẫncác động cơ đều không thể biện minh cho việc tra tấn. (TLHT 404)

276. Án tử hình có phải là hình thức hợp pháp của hình phạt hình sự không?

Xã hội hiện đại có các phương tiện trấn áp tội phạm mà không cần dùng tới án tử hình, như bằng cách bỏ tù và do đó vô hiệu hoá tội phạm mà không khước từ họ cơ hội cải tạo. “Giáo hội coi việc ‘ngày càng có nhiều người công khai chống đối án tử hình’ là một dấu hiệu hy vọng, kể cả khi người ta vẫn coi hình phạt ấy là một cách ‘phòng vệ hợp pháp’ từ phía xã hội” (TLHT 405). (TLHT 405; EV 27; GLHTCG 2266-2267; AL 83)

277. Mục đích của quyền hành pháp, đặc biệt của hành chính công là gì?

Hành chính công ở bất kỳ cấp nào đều hướng tới việc phục vụ công dân và được pháp luật hướng dẫn. Nhà nước nên đóng vai trò là người quản lý công ích. (TLHT 412)

278. Công chức có cần các nhân đức đặc biệt không?

Có. Quyền hành có trách nhiệm đòi hỏi những nhân đức để có thể thực thi quyền lực trong việc phục vụ nhân dân (kiên nhẫn, khiêm tốn, điều độ, bác ái, v.v.). Quyền hành đó “được thực thi bởi những con người biết lấy công ích, chứ không phải nhằm lấy uy tín hay tư lợi, làm mục tiêu chân chính cho công việc mình làm” (TLHT 410). (TLHT 410)

279. Người Công giáo có nên tham gia chính trị?

Mọi Kitô hữu được mời gọi tham gia các vấn đề trần thế, thực thi công bằng và bác ái để phục vụ công ích xã hội theo cách thức phù hợp với ơn gọi của mình. Chẳng hạn, trách nhiệm phục vụ công ích khiến cho việc thực thi quyền bầu cử trở nên bắt buộc về mặt luân lý. Đồng thời, “không phải mọi người đều được mời gọi để dấn thân cách trực tiếp vào đời sống chính trị. Xã hội đua nở vô số các tổ chức đang hoạt động để cổ vũ cho công ích và bảo vệ môi trường tự nhiên hay đô thị” (LS 232). (GLHTCG 1913-1915, 2240; LS 232)

280. Hoạt động trong lĩnh vực chính trị có thể là một ơn gọi không?

Những người nam và người nữ có những phẩm chất cá nhân cho sinh hoạt chính trị và cảm thấy có khuynh hướng hoạt động chính trị có thể chắc chắn rằng họ đã nhận được ơn gọi cao cả từ Thiên Chúa. Chính trị có thể là một con đường dẫn đến công bằng và bác ái. (CV 7)

281. Người Công giáo có được tự do để theo lương tâm của mình về mặt chính trị, hay họ bị ràng buộc với một “cương lĩnh chính trị” cụ thể?

Người Công giáo được tự do làm theo lương tâm của mình trong lĩnh vực chính trị. Huấn quyền Giáo hội không áp đặt bất kỳ cương lĩnh chính trị nào cả; thậm chí Giáo huấn Xã hội của Giáo hội cũng không xác lập một chương trình như vậy bởi vì Giáo hội không cung cấp các giải pháp kỹ thuật. Người Công giáo biểu thị một sự đa nguyên lành mạnh khi họ có các lập trường khác nhau trong một số vấn đề chính trị. Tuy nhiên, một số giá trị nhất định đặt nền tảng trên luật tự nhiên là thông thường đối với mọi người thiện chí, và do đó cũng là luật chung đối với người Công giáo. Những giá trị này, vốn không thể thương lượng được, bao gồm: quyền sống từ khi thụ thai đến cái chết tự nhiên; bản chất của hôn nhân như một sự ràng buộc không thể xoá bỏ giữa một người nam và một người nữ; quyền cha mẹ được theo đuổi nền giáo dục mà họ cho là phù hợp với con cái của mình; nhu cầu thăng tiến công bằng xã hội; phát triển một nền kinh tế để phục vụ công ích và những vấn đề tương tự.

(BGLĐT, ​​Ghi chú Tín lý về một số vấn đề liên quan đến việc tham gia của người Công giáo vào đời sống chính trị, 2002)

282. Giáo hội Công giáo tương quan như thế nào với Nhà nước?

Mối quan hệ của Giáo hội Công giáo với Nhà nước có thể tóm kết là vừa độc lập đồng thời vừa hợp tác. Cả Giáo hội và cộng đồng chính trị đều tự thể hiện trong các cơ cấu tổ chức hữu hình để theo đuổi các mục đích khác nhau: Nhà nước phục vụ công ích trần thế, Giáo hội phục vụ thiện ích tâm linh. Mặc dù các định chế tách biệt như vậy, các bên nên hợp tác trong việc phục vụ con người, vì con người có cả chiều kích trần thế lẫn tâm linh. Ngoài ra, Giáo hội còn đóng góp vào việc đạt được công ích trần thế khi Giáo hội theo đuổi sứ mệnh cứu rỗi của mình. (TLHT 424-425)

283. Giáo hội có dạy tự do tôn giáo không?

Có. Giáo hội Công giáo ủng hộ “cá nhân và các cộng đồng có quyền được tự do về mặt dân sự lẫn xã hội trong các vấn đề tôn giáo”, như được nêu trong tiêu đề của Tuyên ngôn Dignitatis Humanae. Quyền đó phải được công nhận và phê chuẩn như một quyền dân sự được thực thi trong các giới hạn của trật tự công cộng. “Xã hội và Nhà nước không được cưỡng bách con người hành động ngược với lương tâm của mình hay không được ngăn cản con người hành động phù hợp với lương tâm mình. Tự do tôn giáo không phải là được phép về mặt luân lý theo đuổi điều sai lạc, cũng không phải có quyền sai lạc một cách mặc nhiên” (TLHT 421). (TLHT 421-423)

284. Những mối đe doạ chính đối với tự do tôn giáo ngày nay là gì?

Các mối đe doạ chính đối với tự do tôn giáo ngày nay xuất phát từ chủ nghĩa tôn giáo cực đoan, đặc biệt là từ những người theo trào lưu chính thống Hồi giáo chủ trương bạo lực, và từ chủ trương, tuy rất tinh tế nhưng vẫn là bạo lực, loại trừ tôn giáo ra khỏi phạm vi công cộng ở các nước phương Tây. Điều này cũng tương đương với việc áp đặt chủ nghĩa vô thần như một hình thái mới của tôn giáo dân sự (x. Bênêđictô XVI, Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới, 2011).

9. Gia đình các Quốc gia

MARTIN SCHLAG

Sự lệ thuộc giữa con người với nhau càng ngày càng tăng và dần dần trải rộng khắp thế giới. Sự hợp nhất của gia đình nhân loại, khi quy tụ những thành viên có cùng một phẩm giá theo bản tính, bao hàm một công ích phổ quát. Công ích này đòi lập nên một tổ chức của cộng đồng các quốc gia, “có khả năng đáp ứng những nhu cầu khác nhau của con người”.

GIÁO LÝ HỘITHÁNH CÔNG GIÁO1911,

TRÍCH DẪN GS 84 §2

Ta sống trong một thế giới toàn cầu hoá. Không một quốc gia nào có thể sống biệt lập với phần còn lại của thế giới. Các quyết định chính trị được đưa ra ở một quốc gia thường ảnh hưởng đến các nước láng giềng. Trong gia đình các quốc gia này, luật pháp quốc tế và các biện pháp phối hợp giúp ta tiến bước trên con đường hoà bình và phát triển.

285. Vì tất cả chúng ta đều sống trong các quốc gia của mình với các nhu cầu và khó khăn riêng, tại sao ta phải quan tâm đến các nước khác?

Chúng ta cần quan tâm đến các quốc gia khác bởi vì tất cả người nam và người nữ trên trái đất tạo thành một gia đình của Thiên Chúa, và vì là các anh chị em của nhau, ta chia sẻ một số phận chung và chịu trách nhiệm với nhau. Dù ta thuộc các chủng tộc và nói các ngôn ngữ khác nhau, nhưng ta đều là con cái Thiên Chúa. Như thế, các quốc gia khác nhau cùng nhau tạo thành một cộng đồng quốc tế.

286. Thánh Kinh nói gì về gia đình các quốc gia?

Những gì Thánh Kinh nói với chúng ta về công trình sáng tạo biểu lộ sự hợp nhất của gia đình nhân loại và dạy chúng ta rằng Thiên Chúa là người Cha yêu thương của chúng ta và là Chúa của lịch sử. Thánh Kinh cũng mạc khải rằng tội lỗi là nguyên nhân chia rẽ giữa các dân tộc. Hơn nữa, đây cũng là một phần trong kế hoạch cứu độ và là một phần trong sứ mệnh của Giáo hội để đưa thực tại bị phân tán, chia rẽ này trở lại với nhau nhờ Chúa Thánh Thần. Đối với những ai sống cuộc sống mới trong Đức Kitô, sự khác biệt về chủng tộc và văn hoá không còn là nguyên nhân gây chia rẽ nữa. (TLHT 429-431)

287. Sứ điệp Kitô giáo có ý nghĩa gì đối với cộng đồng quốc tế?

Cộng đồng quốc tế phải phấn đấu, hết lần này đến lần khác, để đạt được sự thống nhất theo ý muốn của Đấng Tạo Hoá. Sự hoà hợp này giữa các quốc gia không thể đạt được bằng bạo lực, mà là kết quả của một nỗ lực về luân lý và văn hoá. (TLHT 432)

288. Làm thế nào có thể đạt được sự thống nhất này giữa các quốc gia?

Sự thống nhất chỉ có thể đạt được nếu phẩm giá của mỗi người, trong tất cả các chiều kích khác nhau của con người (vật chất và tinh thần, cá nhân và cộng đồng), được công nhận trên toàn cầu; nếu mối quan hệ của con người trong và giữa các quốc gia khác nhau đặt nền trên các giá trị hướng dẫn của tự do và sự thật, công bằng và bác ái; và nếu, theo thoả thuận chung, cộng đồng quốc tế tìm cách thăng tiến công ích toàn cầu. Tất cả chúng ta đều chia sẻ cùng một hành tinh, với khí hậu và không khí, đại dương và các tuyến giao thông của hành tinh này. Chúng ta ngày càng liên kết và như thế chúng ta chỉ có thể cùng sống với nhau trong hoà bình, tự do và công bằng nếu chúng ta cùng cố gắng xây dựng các định chế bảo vệ các giá trị này. Đây là điều mà ta gọi là công ích toàn cầu. (TLHT 433)

289. “Chủ quyền” của một quốc gia nghĩa là gì?

Chủ quyền có nghĩa là mỗi quốc gia đều là một chủ thể độc lập và tự do của pháp luật quốc tế. Đặc trưng của mối tương quan giữa các quốc gia có chủ quyền là bình đẳng, tin tưởng, hỗ trợ và tôn trọng nhau. Chủ quyền, do đó, không phải là tuyệt đối. Nó không được sử dụng để biện minh cho những nỗ lực đàn áp các quốc gia khác. (TLHT 434-435)

290. Mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền được quy định như thế nào?

Mối quan hệ giữa các quốc gia tự do và có chủ quyền được quy định bởi pháp luật của các quốc gia và theo các nguyên tắc của luật luân lý phổ quát được ghi trong trái tim con người như một biểu hiện sống động trong lương tâm chung của nhân loại. (TLHT 436)

291. Tại sao pháp luật của các quốc gia hoặc pháp luật quốc tế là cần thiết?

Để giải quyết những căng thẳng nảy sinh giữa các cộng đồng chính trị khác nhau, có thể làm tổn hại sự ổn định của các quốc gia và nền an ninh quốc tế, không thể thiếu việc vận dụng các quy tắc chung cùng với cam kết đàm phán và khước từ dứt khoát ý tưởng là các tranh chấp quốc tế có thể được giải quyết qua chiến tranh. Pháp luật quốc tế là kết quả của công cuộc tìm kiếm hoà bình và sự ổn định giữa các quốc gia. (TLHT 438)

292. Tại sao bản thân pháp luật quốc tế thì vẫn không đủ?

Pháp luật quốc tế không đủ để bảo đảm hoà bình lâu dài bởi vì nguyên tắc tin tưởng lẫn nhau có tầm quan trọng tối hậu trong việc củng cố pháp luật, và sự tin tưởng dựa trên các giá trị luân lý được chia sẻ cho nhau. “Mọi người cùng tôn trọng các nguyên tắc ẩn đằng sau ‘cấu trúc pháp lý phù hợp với trật tự luân lý’, đó chính là điều kiện cần thiết để ổn định sinh hoạt quốc tế” (TLHT 437). (TLHT 433, 437, 439)

293. Giáo hội nói gì về các tổ chức quốc tế hiện hữu?

Nói chung, Giáo hội đánh giá tích cực vai trò của các cơ quan liên chính phủ. “Vì các vấn đề hiện nay mang tính toàn cầu, nên hơn bao giờ hết cần phải khẩn trương khởi động các hoạt động chính trị mang tính quốc tế để theo đuổi mục tiêu hoà bình và phát triển, bằng cách chấp nhận những biện pháp có phối hợp với nhau” (TLHT 442). Điều này không có nghĩa là Giáo hội tán thành các chính sách giải quyết các vấn đề theo phương cách trái với Phúc Âm và phẩm giá của con người. (TLHT 440-442)

294. Có phải Toà Thánh cũng là một thành viên của cộng đồng quốc tế?

Đúng. Toà Thánh là một chủ thể của pháp luật quốc tế. Điều này có nghĩa Toà Thánh là “một thẩm quyền có chủ quyền thực hiện các hành vi của riêng mình về mặt pháp lý. Toà Thánh thực thi chủ quyền đối ngoại của mình, chủ quyền được nhìn nhận trong bối cảnh cộng đồng quốc tế’ (TLHT 444) để thực hiện sứ mệnh của mình. (TLHT 444)

295. Có phải các nước giàu hơn được yêu cầu giúp đỡ các nước nghèo hơn phát triển không?

Có. “Học thuyết Xã hội Công giáo khuyến khích các hình thức cộng tác nào có thể giúp các vùng miền của các nước quốc gia chịu cảnh nghèo đói và kém phát triển tiếp cận được thị trường quốc tế” (TLHT 447). “Tinh thần hợp tác quốc tế đòi mọi người không những phải có tư duy đúng đắn về thị trường, mà còn có khả năng nhận thức về bổn phận liên đới, công bằng và bác ái phổ quát” (TLHT 448). (TLHT 446-448)

296. Giáo hội có đưa ra một mô hình hoặc kế hoạch hành động cụ thể nào đó cho sự phát triển quốc tế không?

Không, Giáo hội để các giải pháp kỹ thuật và các kế hoạch hành động cụ thể cho các người thiện chí nam nữ là những người tích cực hình thành đời sống công. Tuy nhiên, Giáo hội cũng nói lời tiên tri của mình rằng: “nhu cầu giải quyết các nguyên nhân tạo nên sự nghèo khó không thể bị trì hoãn, không chỉ vì lý do thực dụng là sự cấp bách của nó đối với trật tự tốt đẹp của xã hội, mà còn vì xã hội cần được chữa khỏi căn bệnh đang làm nó suy yếu và thất bại và chỉ có thể dẫn tới những khủng hoảng mới. Các chương trình an sinh xã hội đáp ứng được một số nhu cầu khẩn cấp, chỉ nên coi là những đáp ứng tạm thời” (EG 202). (EG 202)

10. Bảo vệ Môi trường

MARTIN SCHLAG VÀ ELIZABETH REICHERT

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, cộng đoàn tuyệt hảo của tình yêu vô biên,

xin dạy chúng con biết chiêm ngưỡng Ngài,

trong vẻ đẹp của vũ trụ, và trong mọi sự đang loan báo về Ngài.

Xin khơi dậy tâm tình ngợi khen và cảm tạ của chúng con

vì tất cả mọi sự Ngài đã dựng nên.

Xin ban cho chúng con đặc ân được cảm nhận mình liên kết sâu xa

với muôn loài hiện hữu.

GIÁO HOÀNG PHANXICÔ, LAUDATO SI’

(LỜI CẦU NGUYỆN CHO TRÁI ĐẤT CỦA CHÚNG TA), 246

“Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc môi trường. Trách nhiệm này không có giới hạn” (Bênêđictô XVI, Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới, 2010, 11). Tất cả công trình sáng tạo là một món quà của Thiên Chúa và mỗi sinh vật là một biểu hiện độc đáo của vinh quang Thiên Chúa. Do đó, chúng ta được kêu gọi tiếp cận công trình sáng tạo với thái độ tạ ơn và tán thưởng, tránh cả hai thái cực là tôn thờ thiên nhiên lẫn sức mạnh con người như những thần tượng. Do đó, Giáo hội đề nghị một “nền sinh thái toàn diện”, biết đánh giá và tôn trọng cả hai yếu tố con người và thiên nhiên.

Bài này đã được xem 1028 lần!

Pages ( 14 of 18 ): <1 ... 1213 14 1516 ... 18>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]