297. Thánh Kinh dạy gì về thế giới được tạo dựng và vị trí của con người trong đó?
Công trình sáng tạo là một đối tượng được ca tụng không ngừng trong Cựu Ước. Thế giới không phải là một môi trường thù địch, mà là một món quà của Thiên Chúa, nơi chính Thiên Chúa hiện diện. Thế giới, trên thực tế, tỏ lộ mầu nhiệm Thiên Chúa đã tạo dựng và duy trì nó trong sự hài hoà. “Thiên Chúa đã viết một cuốn sách quý, ‘những dòng chữ của cuốn sách ấy là vô số những vật được tạo thành đang hiện diện trong vũ trụ’” (LS 85); và ta sẽ hiểu chính xác cuốn sách này chỉ khi nào ta biết tác giả của nó. Như trình thuật sáng tạo nói với ta, Thiên Chúa đã tạo ra tất cả mọi thứ và “thấy thế là tốt đẹp” (St 1,25). Tại đỉnh cao của công trình sáng tạo này, Thiên Chúa đặt người nam và người nữ, những sinh vật duy nhất được tạo ra “theo hình ảnh Ngài” (St 1,27), và Thiên Chúa giao tất cả công trình sáng tạo cho họ chịu trách nhiệm. (TLHT 451-452, 456; LS 65-92)
298. Điều này có nghĩa là con người có thể sử dụng thiên nhiên như họ mong muốn?
“Thái độ điển hình cho lối xử sự của con người trong mối quan hệ với công trình sáng tạo chính là thái độ biết ơn và quý trọng…. Nếu gạt bỏ mối quan hệ với Thiên Chúa sang một bên, thiên nhiên kể như đã bị tước mất ý nghĩa sâu xa của nó và trở nên nghèo nàn” (TLHT 487). Con người không được đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa, nhưng hãy nhớ rằng mình là “người cộng tác” với Thiên Chúa trong công cuộc sáng tạo; do đó, chỉ khi đối thoại với Thiên Chúa, ta mới tìm thấy sự thật mà từ đó ta có thể rút ra cảm hứng và các chuẩn mực để thúc đẩy công trình sáng tạo phát triển như Thiên Chúa dự định. (TLHT 452, 460, 487)
299. Mối quan hệ của Đức Giêsu với thiên nhiên là gì?
Đức Kitô, với tư cách Ngôi Lời Thiên Chúa, là Đấng Tạo Dựng muôn loài. Rồi chính Người đã trở thành con người và với đôi mắt của con người, Người chiêm ngưỡng vẻ đẹp của công trình sáng tạo. Người đã sử dụng các yếu tố tự nhiên. Người đã nói về thiên nhiên bằng hình ảnh và dụ ngôn, nhưng Người cũng chế ngự nó (ví dụ khi Người làm yên cơn bão, xem Mt 14, 22-33). “Chúa bắt thiên nhiên phục vụ kế hoạch cứu chuộc của Người. Người yêu cầu các môn đệ nhìn vào sự vật, mùa màng và con người với thái độ tin tưởng của trẻ thơ biết rằng mình không bao giờ bị người Cha quan phòng bỏ rơi (x. Lc 11,11-13)” (TLHT 453). Và một cách đặc biệt, trong các bí tích, “thiên nhiên được Thiên Chúa nâng lên thành phương tiện trung gian cho đời sống siêu nhiên” (LS 235). (TLHT 453; LS 96-100, 235)
300. Có phải ơn cứu chuộc của Đức Kitô cũng mở rộng ra tới thiên nhiên không?
Thế giới đã bị tổn thương bởi tội lỗi, nhưng Đức Giêsu đã khai mạc một thế giới mới và “tái tạo lại những mối quan hệ trật tự và hài hoà đã bị tội phá vỡ” (TLHT 454). Toàn bộ công trình sáng tạo đều góp phần vào công cuộc đổi mới do cái chết và sự phục sinh của Chúa mang lại, mặc dù công cuộc này chưa biểu lộ hoàn toàn rõ ràng. Con cái Thiên Chúa tham gia vào việc cứu chuộc thiên nhiên qua công việc được thánh hoá của mình. Sau khi Người phục sinh, ánh mắt Đức Giêsu không ngừng hướng đến muôn loài thọ tạo, và ta có thể nhìn ngắm Người qua ánh phản chiếu vẻ đẹp của Người trong thiên nhiên. (TLHT 453-455; LS 99-100)
301. Đức tin Kitô giáo giải thích các lạm dụng thiên nhiên của loài người như thế nào?
Thánh Kinh cho ta thấy rằng tội lỗi chính là lý do tối hậu cho tất cả các hành vi lạm dụng thiên nhiên. Như là một hậu quả của tội lỗi, thiên nhiên quay lưng lại với con người và con người cũng quay lưng lại với thiên nhiên. Nhiều người đã coi thiên nhiên là một nguồn tài nguyên có thể chinh phục và khai thác theo ý muốn và không có các cân nhắc đạo đức, không có trách nhiệm đối với các thế hệ tương lai hoặc tôn trọng thiên nhiên như một ngôi nhà chung cho tất cả nhân loại. Đôi khi ta hành xử như thể đã có nguồn dự trữ năng lượng vô hạn để ta sử dụng, và không quan tâm đến các tác động tiêu cực của ô nhiễm. Sau đó, thiên nhiên xuất hiện như một công cụ trong tay của con người mà người ta có thể thao túng, đặc biệt là bằng các phương tiện công nghệ. Đây là một quan niệm của khuynh hướng giải thích thô thiển về thế giới tự nhiên. Nó chỉ biết nhìn xem thiên nhiên theo các thuật ngữ cơ học và tiêu dùng. Đây là “tội sinh thái”, tội này đòi hỏi một “sự hoán cải sinh thái”. (TLHT 453, 461-462; LS 8, 217)
302. Điều này có nghĩa là Giáo hội đổ lỗi cho khoa học và công nghệ lạm dụng thiên nhiên?
Không, các kết quả khoa học và công nghệ tự chúng là tích cực vì các người nam và người nữ đã mở rộng quyền làm chủ của mình trên gần như toàn bộ thiên nhiên và còn tiếp tục làm như vậy. Các Kitô hữu tin chắc rằng những chiến thắng của loài người là một dấu hiệu của ân huệ Thiên Chúa. Chừng nào tiến bộ khoa học được sử dụng cho thiện ích đích thực của loài người, thì Giáo hội tuyệt nhiên không chống lại tiến bộ đó. Đúng hơn, Giáo hội xem khoa học và công nghệ là “một sản phẩm kỳ diệu của óc sáng tạo được Thiên Chúa ban cho con người, và vì chúng đã cung cấp cho chúng ta những khả năng tuyệt vời, nên tất cả mọi người chúng ta đều được hưởng lợi ích từ các khả năng ấy” (TLHT 457). (TLHT 456-457; LS 102-103, 131)
303. Trong hoàn cảnh nào tiến bộ trở thành một phần thiện ích thật sự của nhân loại?
Không phải mọi sự gia tăng sức mạnh của con người đối với thiên nhiên là tiến bộ. Ta không biết chi tiết kế hoạch của Thiên Chúa cho tương lai của loài người là gì, hoặc các phát triển đang hướng tới đâu. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn ban cho ta những luật luân lý để hướng dẫn các hành động, nghiên cứu và công nghệ của ta mà qua đó ta chế ngự thiên nhiên. Việc tuân theo các luật đó luôn dẫn đến thiện ích thật sự của con người. Nói chung, các luật này bao gồm sự tôn trọng phẩm giá con người và phần còn lại của công trình sáng tạo. Việc tôn trọng phẩm giá con người ngụ ý rằng không bao giờ được sử dụng con người như các phương tiện đơn thuần. Việc tôn trọng thiên nhiên đòi hỏi ta can thiệp để thúc đẩy thiên nhiên phát triển theo cách riêng của nó, như Thiên Chúa tạo ra nó, chứ không phá huỷ nó. (TLHT 458-460; LS 105)
304. Một số vấn đề do con người tạo ra mà Giáo hội đã bàn đến là gì?
Giáo hội đặc biệt quan tâm đến vấn đề ô nhiễm không khí, đất và nước, về chất thải và văn hoá vứt bỏ đang hoành hành trong nhiều xã hội của chúng ta. Giáo hội đã đề cập đến vấn đề biến đổi khí hậu, chu trình chuyển hoá carbon và sự mất đa dạng sinh học. Những vấn đề này trong thiên nhiên dẫn đến sự suy giảm phẩm chất cuộc sống của con người và sự đổ vỡ của xã hội, và chúng trở nên tồi tệ hơn bởi sự bất bình đẳng toàn cầu và các đáp ứng đôi khi không hiệu quả của cộng đồng quốc tế. (LS 20-59)
305. Tại sao Giáo hội coi sự mất đa dạng sinh học là một vấn đề?
Sự tuyệt chủng của một số loài ảnh hưởng đến hệ sinh thái xung quanh và có nghĩa là mất đi các nguồn lực quan trọng cho thực phẩm, thuốc men và những thứ khác. “Tuy nhiên, chỉ nghĩ về các chủng loại khác nhau như là ‘những nguồn lực’ thuần tuý để khai thác thì không đủ, cần phải nhìn nhận hiện thực là chúng có giá trị nội tại” (LS 33). Mỗi chủng loại biểu thị vinh quang của Thiên Chúa theo cách riêng của nó và ta không có quyền xoá sổ chúng bừa bãi. (LS 32-42, 84-87)
306. Giáo hội nói gì về khí hậu và biến đổi khí hậu?
Giáo hội kêu gọi các nhà khoa học, người tiêu dùng và những người tham gia vào hoạt động công nghiệp phát triển ý thức trách nhiệm cao hơn vì các tác động của hành vi của họ đối với khí hậu. “Khí hậu là một phúc lợi chung, thuộc về tất cả mọi người và có tầm quan trọng đối với tất cả mọi người. Ở mức độ toàn cầu, đó là một hệ thống phức tạp gắn liền với nhiều điều kiện thiết yếu cho đời sống con người. Một sự đồng thuận có nền tảng khoa học rất vững vàng cho thấy rằng chúng ta đang chứng kiến sự nóng dần lên gây khó chịu của hệ thống khí hậu” (LS 23). (TLHT 470; LS 23-26)
307. Giáo hội có đưa ra các giải pháp kỹ thuật cụ thể cho cuộc khủng hoảng môi trường không?
“Về nhiều vấn đề cụ thể, Giáo hội không có lý do để đưa ra một ý kiến xác định; Giáo hội biết rằng cuộc tranh luận chân thật phải được khích lệ giữa các chuyên gia, trong khi vẫn tôn trọng những quan điểm khác nhau” (LS 61). Tuy nhiên, Giáo hội cố gắng thuyết phục chống lại các lập trường cực đoan: một mặt thần tượng hoá sức mạnh con người để từ chối bất kỳ nhu cầu nào đối với sự cam kết bảo vệ môi trường, và mặt khác lại thần tượng hoá thiên nhiên chủ trương rằng tất cả các sự can thiệp của con người đều là một mối đe doạ về môi trường. (LS 60-61
308. Thế nào là thần tượng hoá sức mạnh con người?
Thần tượng hoá sức mạnh con người nghĩa là giản lược thiên nhiên một cách thực dụng để chỉ còn là một đối tượng có thể thao túng và khai thác. Đây không phải là kết quả của nghiên cứu khoa học và công nghệ, mà là hậu quả của “chủ nghĩa duy khoa học” và các hệ tư tưởng kỹ trị không chấp nhận giới hạn nào. Không phải tất cả mọi thứ có thể thực hiện về mặt kỹ thuật đều có thể được phép thực hiện về mặt đạo đức. Các giới hạn và các điều kiện luân lý vẫn tồn tại: luật lệ của Thiên Chúa và sự tôn trọng chiều kích siêu việt của nhân vị cũng như của chính thế giới tạo thành phải hướng dẫn các hành động của ta. (TLHT 462, LS 106-114)
309. Thế nào là thần tượng hoá thiên nhiên?
Thần tượng hoá thiên nhiên nghĩa là đi đến mức tôn thờ thiên nhiên hoặc trái đất như thần linh. Đó là làm cho thế giới tạo thành trở nên thần tượng và tạo ra những sự mất cân bằng, ví dụ ở những nơi mà người ta “nhiệt thành bảo vệ các chủng loại khác hơn là bảo vệ phẩm giá mà tất cả mọi người cùng chia sẻ cách bình đẳng” (LS 90). Giáo hội phản đối chủ thuyết lấy sinh thái làm trung tâm và lấy sự sống làm trung tâm vì Giáo hội tin vào phẩm giá cao quý hơn của con người và trách nhiệm đối với tất cả những sinh vật khác. Đó là lý do tại sao mối quan tâm đối với sinh thái học phải luôn được kết nối với mối quan tâm về “nền sinh thái nhân bản”, nghĩa là, mối quan tâm đến việc bảo vệ sự sống con người và gia đình. (TLHT 463-464; LS 90-92)
310. Liệu có một con đường ở giữa?
Có thể có một số con đường nằm giữa các thái cực này dẫn đến chủ trương nên tham gia đối thoại với nhau để tìm ra giải pháp. “Cần phải có những cuộc thảo luận để tất cả những ai trực tiếp hay gián tiếp chịu ảnh hưởng… có thể nói lên các vấn đề và mối bận tâm của họ, được tiếp cận nguồn thông tin đầy đủ và đáng tin cậy để đưa ra những quyết định vì công ích cho hiện tại và tương lai” (LS 135).
Ta phải học cách không tư duy theo lối phân đôi có tính loại trừ; đúng hơn ta phải tìm kiếm những phương án mang tính bao gồm. Rất nhiều khi, quyết định không phải là “hoặc/hoặc” nhưng là “cả/lẫn”: Về mặt này, Giáo hội đề xuất ý tưởng về một “nền sinh thái toàn diện”. (LS 135)
311. “Sinh thái toàn diện” là gì?
Một hệ sinh thái toàn diện nhận rằng ta là một phần của thiên nhiên; và do đó “môi trường của con người và môi trường thiên nhiên cùng hư hại với nhau” (LS 50). Thái độ của ta đối với con người ảnh hưởng đến thái độ của ta đối với mọi loài thụ tạo và ngược lại. Khi ta bị điếc trước tiếng khóc của người nghèo, khó mà nghe thấy tiếng kêu của thiên nhiên. “Không thể canh tân mối tương quan của ta với thiên nhiên mà không canh tân chính nhân loại”(LS 118). Một nền sinh thái toàn diện là nền sinh thái tôn trọng cả hai chiều kích con người và xã hội; nó nhận ra rằng mọi thứ đều được kết nối. Nó bao gồm một tầm nhìn rộng hơn, vì xét đến các mối quan tâm về sinh thái, xã hội và kinh tế trong việc đưa ra các quyết định. (LS 48-49, 117-121, 138-142)
312. Chúng ta làm thế nào để việc quan tâm đến môi trường phù hợp với hoạt động của các tổ chức kinh tế?
Là một phần của hệ sinh thái toàn diện này, Giáo hoàng Phanxicô đã kêu gọi một “nền sinh thái kinh tế” trong đó xét xem tất cả các chi phí liên quan đến các quyết định của nó, bao gồm cả “chi phí kinh tế và xã hội khi sử dụng hết tài nguyên môi trường chung” (CV 50). Về lâu dài, việc bảo vệ môi trường cũng có lợi về mặt kinh tế vì một nền kinh tế huỷ hoại môi trường, trong đó nó tồn tại, ảnh hưởng tiêu cực đến việc sản xuất của cải. Trong ngắn hạn và trung hạn, việc tạo ra lợi nhuận dường như có lợi hơn so với chi phí của môi trường (ví dụ, bỏ qua ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá huỷ sự đa dạng sinh học). Hậu quả của những cái gọi là “ngoại ứng tiêu cực” này phải được giảm bớt, và đến lượt chúng ta phải tìm ra những phương cách sáng tạo để giảm thiểu tác động môi trường của sản xuất và khuyến khích việc tiêu thụ hàng hoá có trách nhiệm. (TLHT 470; CV 50; LS 138-142, 183-196)
313. Có mối liên hệ nào giữa nghèo đói và phá huỷ sinh thái không?
Có. Cuộc khủng hoảng môi trường ảnh hưởng đến những người nghèo nhất một cách cực kỳ khắc nghiệt và bi thảm. Nạn xói mòn và sa mạc hoá, mực nước biển dâng cao, xung đột vũ trang và di cư bắt buộc, thiếu phương tiện kinh tế và công nghệ để đối phó với dịch bệnh, ô nhiễm và các hiểm hoạ khác ảnh hưởng lớn nhất đến người nghèo. Nhiều người sống ở vùng ngoại ô bị ô nhiễm của các thành phố lớn, trong các khu dân cư tạm thời hoặc trong các khu phức hợp khổng lồ đang xuống cấp và không an toàn. Những sự kiện này tạo ra một nhu cầu cấp thiết về sự phát triển kinh tế và sinh thái. (TLHT 482; LS 48-52, 150-153)
314. Khi xem xét dân số quá mức ở nhiều khu vực đô thị, chẳng phải việc giảm số ca sinh ra là một giải pháp sao?
Không, sự tăng trưởng nhân khẩu học hoàn toàn tương thích với phát triển kinh tế toàn diện. Quan tâm về môi trường không được trở thành cái cớ cho các quyết định chính trị và kinh tế xung khắc với phẩm giá con người. “Làm sao chúng ta có thể dạy cho người ta biết quan tâm đến những con người yếu đuối khác, dù họ có thể gây phiền toái hay bất tiện, nếu chúng ta không bảo vệ một phôi thai người, ngay cả khi sự hiện hữu của nó gây khó chịu và tạo ra nhiều khó khăn?” (LS 120). Viện trợ phát triển bởi các tổ chức quốc tế hoặc bởi các nhà nước không được đặt điều kiện để giới thiệu các chương trình triệt sản hoặc phá thai hoặc các biện pháp vô luân khác. (TLHT 483; LS 50, 91, 120)
315. Phá huỷ sinh thái thường ảnh hưởng đến người bản địa. Họ có đặc quyền bảo vệ hay đơn giản là họ phải đồng ý để tiến bộ?
Người dân bản địa có mối quan hệ đặc biệt với vùng đất của họ bởi vì chính ý nghĩa sự tồn tại của họ gắn liền với vùng đất ấy, do đó mối quan hệ này đáng được quan tâm đặc biệt, và phải được bảo vệ thích hợp. (TLHT 471; LS 146)
316. Bền vững môi trường là gì?
Bền vững môi trường nghĩa là sử dụng các nguồn tài nguyên ngày nay theo cách đáp ứng các nhu cầu hiện tại của ta, đồng thời cũng lo liệu sao cho các thế hệ tương lai sẽ có thể thoả mãn nhu cầu của họ. Có một số ngành khoa học nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của tính bền vững sinh thái và phát triển bền vững. Giáo hội khuyến khích những nghiên cứu này vì trách nhiệm đối với môi trường, vốn là di sản chung của nhân loại, không chỉ kéo dài đến nhu cầu hiện tại mà còn cho các nhu cầu tương lai. (TLHT 467; LS 159-161)
317. Giáo hội nói gì về công nghệ sinh học, đặc biệt là các sinh vật biến đổi gien?
“Thật khó để đưa ra một phán quyết chung về biến đổi gien (GM), dù là thực vật hay động vật, y tế hay nông nghiệp, vì những thay đổi rất lớn giữa chúng và cần suy xét cụ thể” (LS 133). Đức tin Kitô giáo cho chúng ta biết rằng con người có thể can thiệp vào sự sáng tạo, bao gồm cả mã di truyền của những sinh vật sống. Đồng thời, Giáo hội thúc giục mạnh mẽ về trách nhiệm vì thiên nhiên là một món quà được Đấng Tạo Hoá giao phó cho trí thông minh và trách nhiệm luân lý của những người nam và nữ. Chúng ta có thể cải thiện sinh vật hoặc môi trường tự nhiên của chúng nhưng không làm hư hỏng chúng. Cần đánh giá chính xác lợi ích thực tế cũng như các rủi ro có thể có đối với bản thân các sinh vật, hậu quả kinh tế và xã hội, các tác động lâu dài đối với con người và hệ thống sinh thái xung quanh. Hành động coi thường hoặc vô trách nhiệm trong những lĩnh vực như vậy là không thể chấp nhận được. (TLHT 458-460, 472-480; LS 132-136)
Bài này đã được xem 1024 lần!