CẨM NANG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

318. Các nguyên tắc liên đới và bổ trợ có liên quan đến việc sử dụng công nghệ sinh học ở các nước đang phát triển không?

Tinh thần liên đới quốc tế sẽ thúc đẩy việc trao đổi kiến ​​thức khoa học và công nghệ và chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển để giúp họ phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ của riêng họ. Đồng thời, nguyên tắc bổ trợ kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị của các quốc gia đang phát triển làm mọi việc trong khả năng của mình để tự mình phát triển, bằng chính phương tiện và sức mạnh của mình. Một nỗ lực quan trọng trong quá trình phát triển này là chống tham nhũng và thúc đẩy các chính sách thương mại có lợi cho người dân của họ, bằng cách chú ý đặc biệt đến các đặc điểm và nhu cầu cụ thể của cácquốc gia đó. (TLHT 474-476)

319. Nhà nước có trách nhiệm can thiệp vào việc bảo vệ môi trường không?

Có. Nhà nước phải ban hành các điều luật để bảo vệ môi trường. Dân số trái đất có quyền có một môi trường tự nhiên an toàn và lành mạnh. Điều này bao hàm nhiệm vụ pháp lý của các cơ quan quốc gia và quốc tế để bảo vệ môi trường ở cấp độ pháp lý. (TLHT 468-469)

320. Sự can thiệp của Nhà nước có cần thiết ở cấp độ quốc tế không?

Có. Giáo hội hy vọng có một “sự thay đổi hướng đi” và kêu gọi cộng đồng quốc tế tham gia vào một cuộc đối thoại hiệu quả về môi trường vì “sự phụ thuộc lẫn nhau buộc chúng ta phải suy nghĩ về một thế giới với một kế hoạch chung” (LS 164). (LS 163-164)

321. Và trong chính trị quốc nội?

Các chính trị gia không nên chỉ suy nghĩ trong ngắn hạn để thắng cử: “Khả năng quản lý nhà nước thật sự được thể hiện khi vẫn duy trì được những nguyên tắc rộng lớn và vẫn nghĩ đến công ích dài hạn trong những thời kỳ gian khó” (LS 178). Chúng ta rất cần nền chính trị lành mạnh “có khả năng cải cách các thể chế, điều phối, cổ vũ những cách thực hành tốt nhất, vượt thắng áp lực phi lý và tính trì trệ quan liêu. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng ngay cả những cơ chế tốt nhất cũng có thể bị sụp đổ khi không có những mục tiêu và những giá trị xứng đáng, hoặc không có một nền nhân bản đích thực và sâu sắc được sử dụng như nền tảng của một xã hội cao quý và quảng đại” (LS 181). Khi chính phủ đòi hỏi các giấy phép cần có, “việc đánh giá tác động đến môi trường… phải là một phần của tiến trình ngay từ ban đầu, và được thực hiện liên ngành, minh bạch và độc lập khỏi mọi áp lực kinh tế hay chính trị” (LS 183). (LS 178-183)

322. Thế nào là phản ứng thích hợp của Kitô hữu đối với các viễn cảnh đáng sợ về sự huỷ hoại môi trường?

Các vấn đề sinh thái nghiêm trọng mà ta đương đầu, “đòi hỏi phải hoán cải nội tâm sâu sắc” (LS 217). Chúng kêu gọi lối sống mới được truyền cảm hứng từ tính nghiêm túc, điều độ, khiêm tốn và kỷ luật tự giác ở cả cấp độ cá nhân và xã hội. Những đức tính này giải phóng và đem lại hy vọng và niềm vui. Do đó, ta phải phá vỡ logic của việc chỉ biết tiêu dùng (“chủ nghĩa tiêu thụ”) và đề cao những hình thức sản xuất nông nghiệp và công nghiệp biết tôn trọng trật tự sáng tạo và thoả mãn các nhu cầu căn bản của mọi người. Chúng ta cũng phải tạo nên những nhận thức giúp người tiêu dùng hiểu rõ trách nhiệm xã hội của họ và mở rộng nền giáo dục về quyền công dân sinh thái.

Chủ đề Đặc biệt: Đói nghèo

TEBALDO VINCIGUERRA

323. Có phải nạn đói vẫn là một vấn đề?

Nạn đói là một vấn đề nghiêm trọng. Theo Tổ chức Lương Nông Quốc Tế, khoảng 795 triệu người bị suy dinh dưỡng trên thế giới vào năm 2015. Phần lớn những người này sống trong các nước đang phát triển, chủ yếu ở Châu Á và Châu Phi. Trong các nước này dân số bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi nạn đói, thường ở tại các vùng nông thôn. (L & F 6, 9)

324. Sự khác biệt giữa đói kém và suy dinh dưỡng là gì?

Đói nghĩa là ăn một lượng calo không đủ. Suy dinh dưỡng liên can đến một chế độ ăn uống mất cân bằng; ví dụ, thiếu vitamin và khoáng chất (ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và sự phát triển trí tuệ) hoặc tiêu thụ quá nhiều chất carbohydrate (là yếu tố gây ra bệnh tiểu đường và béo phì). Suy dinh dưỡng ảnh hưởng đến hơn hai tỷ người trên thế giới. Hầu hết những người này không được tiếp cận với chế độ ăn uống cân bằng và đa dạng do nghèo đói, trong khi những người khác – dù giàu có – không được giáo dục về những vấn đề này. Điều tối quan trọng là phải bảo vệ chống suy dinh dưỡng trong những năm đầu đời, vì những tác động tiêu cực có thể kéo dài suốt đời. (L & F 7-8)

325. Thế nào là các nguồn lãng phí thực phẩm?

Một phần đáng kể thực phẩm được sản xuất sẽ bị hỏng ngay sau khi thu hoạch vì nhiều khu vực không thể bảo quản hoặc mang thực phẩm đến thị trường. Trong những trường hợp này, ta nói đến “các tổn thất sau thu hoạch” hơn là lãng phí. Các ví dụ về lãng phí thực phẩm bao gồm khối lượng hàng loạt cá bị các thuyền đánh cá vứt đi vì chỉ sử dụng một số bộ phận nhất định, lãng phí thực phẩm trong các giai đoạn chế biến và phân phối khác nhau, và thực phẩm không ăn bị thải đi bởi người tiêu dùng. Thường có sự khác biệt đáng kể về thực phẩm lãng phí ở các nước nghèo và các nước giàu (nơi người ta thường vứt bỏ thực phẩm mỗi năm do việc dư thừa trọng lượng trong cơ thể). (L & F 56)

326. Một số vấn đề xung quanh việc sản xuất thực phẩm hiện nay là gì?

Càng ngày, chúng ta càng biết “những gì” phải làm: chúng ta đã phát triển hệ thống tưới tiêu và các kỹ thuật bảo quản thực phẩm và hiểu các bước cần thiết để phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp nhỏ và những nguy hiểm của một số phương thức canh tác. Tuy nhiên, tình hình vẫn có vấn đề, như có thể thấy ở số người thiếu thực phẩm; số các cộng đồng, trước đây chịu cảnh đói kém, hiện nay đang bị suy dinh dưỡng do sự phổ biến của thói quen ăn uống thiếu thốn; cảnh nghèo khổ ở chính những nơi sản xuất lương thực; tình trạng chuyên môn hoá phổ biến và tập trung sản xuất thực phẩm ở cấp độ toàn cầu; và các quá trình chậm chạp trong việc tiếp cận các quyền sở hữu đất đai ở các cộng đồng nông thôn và bản địa. Những vấn đề này không phải là mới. Do đó người ta có ấn tượng là tình hình vẫn tiếp tục tồn tại do người ta “thiếu ý chí” để giải quyết. (L & F 13-14, 16-25)

327. Những phương cách chính để sản xuất thực phẩm là gì?

Đơn giản hoá sự việc, có hai phương cách tương phản: một mặt, sản xuất chuyên sâu và mở rộng, cơ giới hoá cao độ, và dựa trên nghiên cứu tinh vi (hoá học, di truyền học, công nghệ sinh học, v.v.). Mặt khác, sản xuất ở cấp địa phương hoặc gia đình, nơi đặt giá trị vào sự đa dạng sinh học và các giống loài địa phương tự nhiên (“nông nghiệp sinh thái” và “nông nghiệp gia đình” là các thuật ngữ biểu tượng của phương cách này). Cần tiếp tục tiến tới, mà không nên có lối suy nghĩ gắn bó với hệ tư tưởng đóng kín nào, liên tục đánh giá các sáng kiến ​​khác nhau, và khuyến khích những sáng kiến ​​cống hiến tốt nhất cho sự phát triển con người, môi trường, chất lượng thực phẩm, nền kinh tế bao quát và sự phân phối lợi nhuận hợp lý.

328. Các quốc gia có thể làm gì về nạn đói và về thực phẩm nói chung?

Ở cấp quốc gia, mỗi nước phải áp dụng các chính sách phù hợp để lập trật tự cho nền kinh tế ngõ hầu mỗi người đều có cơ hội làm việc và do đó có được thực phẩm, và sử dụng tài nguyên thiên nhiên của mình một cách bền vững. Các chính sách hỗ trợ các nhà sản xuất thực phẩm cũng cần thiết, chẳng hạn như sự đào tạo thích hợp và tiếp cận thị trường, tín dụng và công nghệ.

Quan tâm đến thực phẩm và dinh dưỡng cũng là một nhiệm vụ của các chính phủ. Điều này bao gồm việc giáo dục những người chọn lựa và chế biến thực phẩm, đồng thời giữ chân các nhà sản xuất thực phẩm có trách nhiệm (để duy trì chất lượng sản phẩm cao và bảo đảm điều kiện làm việc xứng đáng ở tất cả các cấp của chuỗi cung ứng) và những người làm việc trong ngành quảng cáo (để họ không quảng bá thực phẩm hoặc các thói quen ăn uống có thể gây hại cho sức khoẻ của con người). Các chính sách này tất nhiên sẽ thay đổi theo từng nước, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển và tuỳ theo bối cảnh nông nghiệp, chính trị, khí hậu và văn hoá.

(L & F 14, 116-118, 121-122, 129-140)

329. Và ở cấp độ quốc tế?

Các hành động ở cấp độ quốc tế rất cần được phối hợp. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết: “Vấn đề là chúng ta vẫn thiếu nền văn hoá thích hợp để đối phó với cơn khủng hoảng này. Chúng ta thiếu sự lãnh đạo có khả năng vạch ra những con đường mới và đáp ứng những nhu cầu hiện tại với sự quan tâm đến tất cả và không thành kiến đối với các thế hệ kế tiếp…. Điều đáng chú ý là các đáp ứng chính trị quốc tế rất yếu ớt” (LS 53-54). Hành động quốc tế là cần thiết hơn bao giờ hết để cân bằng các chính sách thương mại, đặc biệt để các quốc gia kém phát triển nhất có thể tăng cường các ngành nông nghiệp của họ, và để quy địnhviệc đánh bắt cá ngoài khơi biển cả sao cho tất cả đều có lợi như nhau thay vì chỉ một số ít Nhà nước có các đội tàu thích hợp. Điều quan trọng là phải nhớ rằng các hành động ở cấp quốc tế phải được hướng dẫn bởi nguyên tắc bổ trợ, cung cấp sự hỗ trợ cho các nước riêng lẻ khi cần, mà không thay thế một cách không cần thiết cho sáng kiến ​​của những nước này. (LS 53-59; L & F 41, 75, 128)

330. Chiến lược dài hạn tốt nhất chống đói là gì?

Chúng ta vẫn phải cảnh giác với “vấn đề đói kém”; bằng cách tham vấn nhiều chỉ số như thực phẩm sẵn có tại địa phương, giá cả ở cấp địa phương và toàn cầu, dịch bệnh và thiên tai có thể ảnh hưởng đến sản xuất cụ thể của một vùng hoặc mùa màng, các thay đổi thị hiếu hoặc nhu cầu của khách hàng và hành vi sai trái của một số người tham gia thị trường, nhất là chú ý đến nạn đầu cơ. Chúng ta cũng phải tiên đoán và phản ứng với bất kỳ sự suy giảm nào liên quan về các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sản xuất thực phẩm, như đa dạng sinh học, độ phì nhiêu của đất, trữ lượng nước, các điều kiện khí hậu và trữ lượng cá ngoài đại dương. Đồng thời, việc cảnh giác đối với các chỉ số này sẽ mang lại kết quả nếu chúng ta cũng lưu tâm đến “thách đố lớn về văn hoá, thiêng liêng và giáo dục vẫn đang ở phía trước chúng ta” (LS 202). Đây là chiến lược dài hạn tốt nhất. (LS 202-221; L & F 121, 124-127)

331. Các Kitô hữu cá nhân có thể làm gì để chống đói?

Ở cấp độ cá nhân, người ta phải chú ý không lãng phí thực phẩm và mua thường xuyên hết mức có thể thực phẩm sản xuất trong khi tôn trọng môi trường và trả lương công bằng cho người lao động với sự kính trọng. Việc công nhận rằng thực phẩm không chỉ là thành quả của lao động con người, mà còn là một món quà của Thiên Chúa quan phòng sẽ giúp chúng ta thận trọng hơn để tránh lãng phí. Suy rộng ra, các Kitô hữu có thể tìm thấy trong đức tin và linh đạo của mình “động lực mạnh mẽ để chăm sóc thiên nhiên và những người dễ tổn thương nhất trong số những anh chị em của mình” (LS 64).

Ở cấp độ xã hội, các tổ chức khác nhau của xã hội dân sự và các cá nhân phải giám sát các hành động của các giới chức chính phủ mình, để pháp luật và chính sách thật sự phục vụ công ích. Ví dụ, chính quyền phải tránh các hiệp định mua bán hàng làm tồi tệ hơn tình cảnh của các nước nông nghiệp nghèo, và họ không nên thúc đẩy dùng thực phẩm làm nhiên liệu sinh học nếu điều này ảnh hưởng đến an ninh lương thực. (LS 63-64; L & F 66-68, 85-91)

332. Giáo hội làm được những gì về nạn đói?

Giáo hội luôn thể hiện một mối quan tâm đặc biệt đối với người nghèo, người đói và các nhà sản xuất thực phẩm. Các giáo phận, dòng tu và các hiệp hội như mạng lưới Caritas luôn đi đầu trong cuộc chiến chống đói nghèo và phát triển cộng đồng nông thôn thông qua đào tạo, trợ giúp pháp lý và cung cấp vật phẩm và tín dụng. Ở cấp độ quốc tế, Toà Thánh và các giáo hoàng đã nhiều lần thúc giục và tiếp tục yêu cầu các Nhà nước thành viên cố gắng giải quyết một cách có trách nhiệm mối hoạ của nạn đói. Các ngài đặc biệt nhấn mạnh khi tố cáo cái “nghịch lý của sự dư thừa”, đề cập đến các quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào lại phải chịu cảnh nghèo đói không thể nào tin được. Các ngài cũng lên án việc lãng phí thực phẩm và việc sử dụng thực phẩm làm vũ khí chống lại những người dân vô tội. Hơn nữa, các hiệp hội Công giáo đủ loại tiến hành đối thoại với khu vực tư nhân, khuyến khích họ tiếp tục cải thiện thành tích của họ trong các thứ hạng về sinh thái, tài chính và xã hội. (L & F 146-150)

11. Thăng tiến Hoà bình Chân chính

MARTIN SCHLAG

Hoà bình không đánh mất gì cả, chiến tranh có thể làm mất mọi thứ.

Giáo hoàng Piô XII, Decennium Dum Expletur

Hoà bình vượt xa tình trạng vắng bóng chiến tranh; hoà bình là viên mãn của sự sống. Hoà bình là mục tiêu của mọi xã hội và điều quan trọng là phải vận hành và thăng hoa nó. Hoà bình liên tục bị đe doạ bởi các căng thẳng chính trị, chiến tranh và nạn khủng bố. Giáo hội kêu gọi chúng ta tha thứ và thúc đẩy ta hành động cho hoà bình ở cấp độ cá nhân, xã hội và quốc tế.

333. Hoà bình là gì?

Hoà bình là thành quả của công lý và tình yêu. Hoà bình là một thiện ích lớn lao và là một nhiệm vụ chung được thiết lập dựa trên việc làm cho xã hội được trật tự, nó có nguồn gốc từ chính Thiên Chúa, và đặt nền trên công bằng và bác ái. Hoà bình không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt chiến tranh, hoà bình cũng không thể giản lượcvào việc duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các đối thủ. Bạo lực, là sức mạnh bất công nên không bao giờ là một phương tiện để đạt được hoà bình. (TLHT 494-496)

334. Thánh Kinh dạy gì về hoà bình?

Thánh Kinh dạy chúng ta rằng nơi nào có bạo lực, Thiên Chúa không thể có mặt (x. 1Sb 22,8-9). Hoà bình trước hết và trên hết là một món quà từ Thiên Chúa, một trong những món quà lớn lao nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người, và nó liên quan đến sự vâng phục đối với kế hoạch Thiên Chúa. Thiên Chúa đã thiết lập hoà bình như là mục tiêu của đời sống trong xã hội. (TLHT 488-490)

335. Có phải hoà bình là một phần của giáo huấn Kitô giáo?

Lời hứa về hoà bình, trải rộng toàn bộ Cựu Ước, được hoàn thành trong con người của Đức Giêsu. Đức Giêsu “là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Người đã phá vỡ bức tường chia rẽ do sự thù địch giữa các dân tộc, hoà giải họ với Thiên Chúa (x. Ep 2,14-16). Đức Giêsu ban tặng một nền hoà bình mà thế giới không thể ban cho (x. Ga 14,27). (TLHT 491-493)

336. Giáo hội dạy gì về chiến tranh nói chung? Chiến tranh có bao giờ có thể được coi là chính đáng không?

Một cuộc chiến tranh xâm lược thực chất là vô luân. Trong trường hợp bi thảm khi một cuộc chiến như vậy nổ ra, các nhà lãnh đạo của nước bị tấn công có quyền và nhiệm vụ tổ chức phòng thủ bằng cách sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp chỉ phòng vệ chính đáng, chiến tranh vẫn luôn là “‘sự thất bại của toàn thể nền nhân bản chân chính’, ‘nó luôn luôn là một thất bại cho nhân loại’”, (TLHT 497). Vì vậy, tốt hơn hết là không nên nói đến “chiến tranh chính đáng” mà chỉ nên nói đến sự phòng vệ chính đáng vì hoà bình. (TLHT 497-500)

337. Trong những điều kiện nào việc bảo vệ hoà bình thông qua sử dụng vũ khí được coi là chính đáng?

“Để được hợp pháp, việc sử dụng vũ lực phải tuân thủ một số điều kiện nghiêm ngặt như sau: ‘sự thiệt hại do nước xâm lăng gây ra cho quốc gia hay cộng đồng các quốc gia phải là sự thiệt hại lâu dài, nghiêm trọng và chắc chắn; phải chứng tỏ là đã dùng hết các phương thế khác để dập tắt chiến tranh mà không thực hiện được hay không có kết quả; phải có những triển vọng thành công chắc chắn; việc sử dụng vũ khí không được gây ra những tội ác và rối loạn lớn hơn tội ác của chính cuộc xâm lược cần loại bỏ. Những phương tiện huỷ diệt hiện nay có sức mạnh lớn lao đến nỗi cần phải cẩn trọng cân nhắc điều kiện sau cùng này” (TLHT 500). (TLHT 500-501; GLHTCG 2309)

Bài này đã được xem 1016 lần!

Pages ( 16 of 18 ): <1 ... 1415 16 1718>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]