CẨM NANG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

338. Có phải các quốc gia được phép duy trì các lực lượng vũ trang không?

“Những đòi hỏi của việc phòng vệ chính đáng cho phép các quốc gia có những lực lượng vũ trang, nhưng hoạt động của những lực lượng này phải nhằm phục vụ hoà bình. Những ai bảo vệ an ninh và tự do của quốc gia theo tinh thần ấy là đã đóng góp thật sự vào nền hoà bình” (TLHT 502). (TLHT 502)

339. Các lực lượng vũ trang nên đối xử với những người dân vô tội như thế nào?

Lý do cho sự tồn tại của lực lượng vũ trang là sự phòng vệ chính đáng những con người vô tội. Do đó, việc bảo vệ và giúp đỡ những nạn nhân vô tội, những người không có khả năng tự vệ trước những hành vi xâm lược là một bổn phận. Nguyên tắc này cũng bao hàm một nghĩa vụ giữ cho các thành phần dân sự khỏi chịu các ảnh hưởng của chiến tranh. Các quy tắc của luật nhân đạo quốc tế phác hoạ cách cư xử được chấp nhận trong chiến tranh. (TLHT 502-505)

340. Các quốc gia có nhiệm vụ đối với những người bị tấn công ở các quốc gia khác không?

“Cộng đồng quốc tế, như một toàn thể, có nghĩa vụ luân lý là phải can thiệp nhân danh các tập thể mà sự sống còn của họ đang bị đe doạ hay các nhân quyền căn bản của họ đang bị vi phạm nặng nề” (TLHT 506). Là thành viên của gia đình nhân loại bao gồm các dân tộc, các nước không thể giữ thái độ thờ ơ. Trái lại, họ có nhiệm vụ bảo vệ: nếu mọi biện pháp khác đều tỏ ra vô hiệu, thì thật là “chính đáng và thậm chí bắt buộc phải áp dụng các biện pháp cụ thể để tước khí giới kẻ xâm lược” (TLHT 506). Rõ ràng, các biện pháp được thông qua phải được thực hiện với thái độ hoàn toàn tôn trọng pháp luật quốc tế và nguyên tắc căn bản về sự bình đẳng giữa các quốc gia. (TLHT 506)

341. Giáo hội nói gì về vũ khí huỷ diệt hàng loạt?

Vũ khí huỷ diệt hàng loạt – dù là vũ khí sinh học, hoá học hay hạt nhân – đã bị Huấn quyền lên án rõ ràng: “Bất cứ hành vi chiến tranh nào nhằm tiêu diệt một cách không phân biệt toàn bộ các thành phố hay những khu vực rộng lớn, cùng với dân cư tại đó, đều là tội ác chống lại Thiên Chúa và chính con người. Những hành vi ấy rất đáng bị lên án một cách dứt khoát và kiên quyết” (TLHT 509, trích dẫn GS 80). Hơn nữa, “hầu như không thể nào tưởng tượng được trong một kỷ nguyên hạt nhân như hiện nay, người ta được phép sử dụng chiến tranh như một công cụ để thực thi công lý” (TLHT 497, trích dẫn PT 127). (TLHT 497, 509; GS 80)

342. Có những thực hành chiến tranh khác, ngoài vũ khí huỷ diệt hàng loạt đã bị Huấn quyền vạch rõ là sự dữ?

Giáo hội yêu cầu loại bỏ hoàn toàn bom mìn chống người và tất cả các vũ khí khác nhằm gây khủng hoảng tinh thần nặng nề hoặc tấn công bừa bãi. Giáo hội cũng yêu cầu ngưng sử dụng trẻ em và thanh thiếu niên làm binh sĩ trong các cuộc xung đột vũ trang. (TLHT 510-512)

343. Một thành viên của lực lượng vũ trang phải làm gì nếu nhận được các lệnh bất nhân?

Quân nhân chỉ phải tuân theo những mệnh lệnh chính đáng. Tuy nhiên, “mọi thành viên trong các lực lượng vũ trang đều có bổn phận về mặt luân lý chống lại những mệnh lệnh yêu cầu mình phạm các tội ác đi ngược lại luật lệ các quốc gia và các nguyên tắc phổ quát của luật này…. Không thể lấy cớ tùng phục lệnh của cấp trên để bào chữa cho những hành vi ấy của mình” (TLHT 503). (TLHT 503)

344. Các quốc gia nên làm gì để tránh thảm kịch chiến tranh?

Tìm kiếm các giải pháp thay thế cho chiến tranh là một vấn đề cấp bách lớn lao. Gần như mọi xung đột lợi ích đều có khả năng được giải quyết bằng các biện pháp khác không phải là chiến tranh, ví dụ, bằng các cuộc đàm phán. Tuy nhiên, điều cần thiết là tìm kiếm các nguyên nhân ngầm gây nên xung đột, đặc biệt là những nguyên nhân liên quan đến các tình huống tạo ra bất công, nghèo đói và bóc lột. Do đó có thể nói rằng “một danh hiệu khác cho hoà bình là phát triển” (TLHT 498, trích dẫn CA 52). (TLHT 498-499)

345. Còn có những phương tiện nào khác để tránh chiến tranh ngoài đàm phán và một kế hoạch phát triển dài hạn?

Chiến tranh luôn là biện pháp cuối cùng, được sử dụng khi tất cả các nỗ lực khác đều thất bại. Trước khi tham chiến, cộng đồng quốc tế nên áp dụng các biện pháp trừng phạt nhằm sửa chữa hành vi của chính phủ một nước,vi phạm các quy tắc chung sống hoà bình và theo trật tự quốc tế hoặc thực hiện các hình thức gây áp lực nghiêm trọng đối với dân chúng của nước đó. (TLHT 507)

346. Giáo hội có ủng hộ giải trừ quân bị không?

Có. Giáo hội đề xuất mục tiêu “giải trừ quân bị toàn bộ, có cân đối và có kiểm soát” (TLHT 508). Mỗi quốc gia có thể sở hữu các phương tiện cần thiết cho việc phòng vệ hợp pháp của mình, tuy nhiên, mọi hoạt động tích trữ hàng loạt hay buôn bán vũ khí bừa bãi vượt quá biện pháp phòng vệ này đều không thể biện minh về mặt luân lý. (TLHT 508-511)

347. Chủ nghĩa khủng bố là gì?

Chủ nghĩa khủng bố là một trong những hình thức bạo lực tàn ác nhất. Nó nhằm mục đích đe doạ và gây bất ổn cho cơ quan công quyền hoặc dân chúng bằng cách gieo rắc nỗi sợ hãi và khủng bố trong dân thường, qua việc phá huỷ cuộc sống hoặc tài sản. Nó thường nhắm vào những người vô tội ở những nơi sinh hoạt hàng ngày, khiến họ trở thành nạn nhân tình cờ của bạo lực. (TLHT 513)

348. Khủng bố có thể biện minh được không? Còn những kẻ giết người nhân danh Thiên Chúa thì sao?

Khủng bố không bao giờ có thể biện minh được vì bất kỳ lý do nào, đặc biệt là lý do tôn giáo. “Thật là một điều báng bổ và phạm thượng khi tự xưng mình là kẻ khủng bố nhân danh Thiên Chúa” (TLHT 515). Khủng bố phải bị lên án bằng điều khoản tuyệt đối nhất. Các Nhà nước có quyền và có nhiệm vụ bảo vệ người dân vô tội khỏi bị khủng bố. Tuy nhiên, việc bảo vệ đó không biện minh cho các phương tiện trái với luật quốc tế và nhân quyền. (TLHT 514-515)

349. Làm thế nào có thể tránh khủng bố hiệu quả nhất?

Điều quan trọng là khám phá các nguyên nhân có thể dẫn đến khủng bố. “Muốn đấu tranh chống lại chính sách khủng bố thì buộc phải có bổn phận luân lý là tạo ra các điều kiện giúp ngăn chặn khủng bố phát sinh hay phát triển” (TLHT 513). Trong bối cảnh này, sự cam kết tại các cấp độ chính trị và giáo dục đặc biệt cấp bách, vì việc tuyển mộ những kẻ khủng bố thì dễ dàng hơn ở những nơi xảy ra bất công và nhân quyền bị xâm phạm. (TLHT 513-514)

350. Giáo hội có đóng góp cho hoà bình thế giới không?

“Cổ vũ hoà bình trên thế giới là một phần tất yếu trong sứ mệnh của Giáo hội khi tiếp tục công trình cứu chuộc của Đức Kitô trên trần gian. Thật vậy, trong Đức Kitô, Giáo hội là một ‘bí tích’, tức là dấu chỉ và công cụ của hoà bình trên thế giới và cho thế giới” (TLHT 516). Điều này có nghĩa là Giáo hội cung cấp cho thế giới một cộng đồng tha thứ và hoà giải, không có tha thứ và hoà giải thì không thể có hoà bình. (TLHT 516)

351. Có thể nào có hoà bình mà không có sự tha thứ không?

Không thể có hoà bình nếu không có công lý, và không có công lý nếu không có sự tha thứ. Chắc chắn, “tha thứ cho nhau không phải là loại bỏ nhu cầu về công lý và càng không phải là ngăn chặn con đường dẫn đến sự thật” (TLHT 518). Tuy nhiên, mọi hành vi bạo lực đều để lại một gánh nặng đau thương, mà không thể đơn giản là chỉ vất bỏ nó, nhưng gánh nặng đó chỉ có thể được đón nhận khi biết tha thứ cho nhau và đón nhận sự tha thứ của nhau. Đây là một tiến trình lâu dài và khó khăn, nhưng là một điều có thể thực hiện được. (TLHT 517-518)

352. Đóng góp quan trọng nhất của Giáo hội cho hoà bình là gì?

Đóng góp quan trọng nhất của Giáo hội cho hoà bình là việc cử hành Bí tích Thánh Thể, một nguồn suối vô hạn cho mọi cộng đồng Kitô giáo đích thực, cho sự tha thứ và dấn thân vì hoà bình. Giáo hội tham gia vào cuộc chiến vì hoà bình thông qua việc cầu nguyện. “Cầu nguyện giúp mở rộng tâm hồn không những để liên hệ sâu xa với Thiên Chúa, mà còn để gặp gỡ người khác với sự tôn kính, hiểu biết, quý trọng và tình yêu” (TLHT 519). (TLHT 519-520)

12. Biến đổi Văn hoá

MARTIN SCHLAG

Đức tin của chúng ta không chỉ là một nghĩa vụ cuối tuần, một mầu nhiệm được cử hành quanh bàn thờ vào Chủ Nhật. Đó là một thực tế thâm nhập mọi nơi được thể hiện mỗi ngày tại tư gia, văn phòng, nhà máy, trường học và các doanh nghiệp trên khắp đất nước của chúng ta.

USCCB, Công bằng Kinh tế cho Tất cả, Lời tựa, 25

Tân Phúc Âm hoá kêu gọi mọi Kitô hữu ra đi và loan báo Phúc Âm, mỗi người theo ơn gọi riêng của mình. Điều này liên quan đến sự hội nhập văn hoá vào đức tin. “Một đức tin mà không trở thành văn hoá là một đức tin ‘không được đón nhận trọn vẹn, không được suy nghĩ thấu đáo, và không được sống một cách trung tín’” (CFL 59). Phúc Âm có sức mạnh đổi mới các thực tại văn hoá và xã hội, phát huy những thiện hảo nơi chúng lẫn tẩy sạch những yếu tố tội lỗi của chúng.

353. Rõ ràng, Giáo huấn Xã hội của Giáo hội cần phải đưa vào thực tế. Đóng góp chính của Giáo huấn Xã hội cho hành động Kitô giáo là gì?

Giáo hội góp phần xây dựng cộng đồng con người bằng cách đưa ra ý nghĩa xã hội của Phúc Âm. Hoạt động mục vụ của Giáo hội trong lĩnh vực xã hội và hành động xã hội của các Kitô hữu luôn đặt con người vào trung tâm, đặc biệt là những người nghèo túng và đau khổ. Thông qua cuộc sống và hành động của mình, các Kitô hữu nên cố gắng định hình các xã hội của họ. Đức tin của ta có thể làm mới văn hoá và xã hội nơi ta sống. (TLHT 521-523, 527)

354. Văn hoá là gì?

Liên quan đến các ngôi vị cá nhân, từ “văn hoá” chỉ “tất cả những gì con người dùng để phát triển và hoàn thiện các phẩm chất thể xác và tinh thần của mình” (GS 53). Ở cấp độ xã hội, văn hoá đề cập đến một tổng hợp tất cả các yếu tố hình thành nên cuộc sống của chúng ta trong xã hội. Có nhiều nền văn hoá khác nhau bởi vì các yếu tố văn hoá thay đổi theo thời gian và nơi chốn. Các yếu tố đó điển hình cho một bản chất của công nghệ, biểu tượng và thể chế. Văn hoá tối cần cho cuộc sống của con người; không có nó, chúng ta không thể phát triển làm người đầy đủ. Như vậy văn hoá cũng có phần hợp thành nên đạo đức và tôn giáo. (GS 53)

355. Đức tin Kitô giáo có liên quan gì đến văn hoá không?

Có. Một đức tin sống động định hình và thâm nhập văn hoá từ bên trong. Như thế, nó mới làm mới và tẩy sạch các tập tục và các cách cư xử trong xã hội. Chúng ta gọi đây là “sự hội nhập văn hoá”. (TLHT 523)

356. “Tân Phúc Âm hoá” là gì?

Tân Phúc Âm hoá, theo nghĩa rộng, đề cập đến việc Phúc Âm hoá cho những xã hội chưa từng biết đến Phúc Âm, và tái Phúc Âm hoá những xã hội đã từng trải nghiệm Phúc Âm, nhưng cũng đã cho thấy có một sự tục hoá trong nền văn hoá của các xã hội này. Do đó, Tân Phúc Âm hoá kêu gọi sự hội nhập đức tin Kitô giáo vào xã hội ngày nay, bắt đầu bằng việc khẳng định những điều tốt đẹp tồn tại trong các xã hội của chúng ta và sau đó cố gắng làm sạch những yếu tố tội lỗi của các xã hội ấy. Giáo huấn Xã hội đóng một phần quan trọng trong nỗ lực này. (TLHT 523)

357. Giáo hội uỷ thác cho ai truyền bá học thuyết xã hội và hội nhập văn hoá đức tin?

Mọi Kitô hữu và toàn thể dân Thiên Chúa đều có một vai trò trong sứ mệnh của Giáo hội. Với tư cách thành viên được thánh tẩy để đón nhận đức tin, việc chia sẻ món quà đức tin với những người khác là vinh dự và bổn phậncủa chúng ta. Không ai có thể để lại nhiệm vụ Phúc Âm hoá và hội nhập văn hoá đức tin cho người khác làm. Tất cả các Kitô hữu cũng được kêu gọi để thực hiện công việc mục vụ trong lĩnh vực xã hội. Tất cả các Kitô hữu được kêu gọi trở thành các chủ thể tích cực trong việc khám phá sự thật, và làm chứng cho sự thật bằng lời nói và hành động. (TLHT 525, 538)

358. Nhưng chẳng phải có những chức năng khác nhau trong Giáo hội sao?

Vâng, có. Theo ý muốn của Đức Kitô, trong Giáo hội có các thừa tác viên thánh (còn gọi là giáo sĩ) và các tín hữu Kitô khác được gọi là giáo dân. Hơn nữa, có một nhóm Kitô hữu thứ ba tận hiến cho Thiên Chúa trong một dòng tu bằng cách tuyên xưng các lời khuyên Phúc Âm. “Giữa tất cả các Kitô hữu, do việc họ được tái sinh trong Đức Kitô, có sự bình đẳng thật sự về phẩm giá và hành động, nhờ đó, tất cả mọi người, tuỳ theo điều kiện và chức năng riêng của mỗi người, đều cộng tác vào việc xây dựng Thân Thể Đức Kitô” (GLHTCG 872). (GLHTCG 872; LG 31-32)

359. Nhiệm vụ chính của các mục tử trong Giáo hội, như giám mục, linh mục, giáo lý viên, và các tu sĩ nam nữ là gì?

Giáo hội có “bổn phận tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải thích chúng dưới ánh sáng Phúc Âm. Như vậy mới có thể giải đáp một cách thích ứng với từng thế hệ những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai sau cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy. Do đó, cần phải nhận ra và hiểu biết thế giới chúng ta đang sống với những lời giải thích, mong ước và cả tính chất thường là bi thảm của nó” (GS 4). Vì thế, nhiệm vụ đầu tiên của các mục tử trong Giáo hội bao gồm việc lắng nghe anh chị em của mình với sự quan tâm sâu sắc đến các vấn đề xã hội đương thời cũng như mong muốn hiểu và chia sẻ chúng. (TLHT 533)

360. Tất cả chỉ có thế sao?

Ngoài nhiệm vụ căn bản là chia sẻ Phúc Âm, các mục tử cũng phải làm cho người khác quan tâm, hướng dẫn và giảng dạy Phúc Âm trong chiều kích xã hội của Phúc Âm cho các bạn Kitô hữu của mình. Sự đào tạo Kitô giáo của chúng ta sẽ không đầy đủ nếu không có kiến ​​thức về Học thuyết Xã hội của Giáo hội. Kiến thức này phải là một phần của việc đào tạo mọi Kitô hữu, cách riêng các tín hữu giáo dân, bởi vì quà tặng và bổn phậncủa họ là phải quan tâm đến các nghĩa vụ của mình trong xã hội dân sự. (TLHT 528-531)

361. Công việc đào tạo này nên được định hướng như thế nào?

Việc giảng dạy Học thuyết Xã hội của Giáo hội cần được hướng đến việc làm cho cuộc sống và công việc trong thế giới này trở nên nhân bản hơn và mang tính Kitô giáo hơn. Việc giảng dạy này không phải chỉ có ngôn từ mà cần cổ vũ các hành động tốt. Vì lý do này, giáo lý tốt nhất là làm chứng bằng một đời sống Kitô hữu. Về Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, bước đầu tiên trong việc đào tạo tất cả các Kitô hữu giáo dân là nên giúp họ hoàn thành các hoạt động hàng ngày trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, kinh tế và chính trị, và phải phát triển trong họ một ý thức về bổn phận phục vụ công ích. Bước tiếp theo liên quan đến việc đào tạo đặc biệt những Kitô hữu có tài năng và cảm nhận được tiếng gọi phục vụ cộng đồng trong các vai trò lãnh đạo. (TLHT 530-531)

362. Thế nào là ơn gọi tín hữu giáo dân?

Ơn gọi tín hữu giáo dân là làm chứng cho Đức Kitô và là những người chiêm niệm giữa thế giới, nghĩa là tìm kiếm Thiên Chúa trong mọi việc họ làm. Ta gọi đây là “bản chất trần thế trong nhiệm vụ làm môn đệ Đức Kitô của họ”(TLHT 541). Bổn phận của họ là loan báo Phúc Âm bằng lời nói và hành động trong mọi hoạt động của con người: trong gia đình; trong các dấn thân chuyên môn của họ trong thế giới lao động, văn hoá, khoa học và nghiên cứu; cũng như trong việc thực hiện các trách nhiệm xã hội, kinh tế và chính trị. Tất cả các thực tại trần thế, mà hình thành nên bối cảnh của đời sống Kitô hữu của họ, đều là các vấn đề mà các tín hữu giáo dân có thể biến đổi bằng một cuộc sống thánh thiện. (TLHT 541-545)

363. Làm thế nào các tín hữu giáo dân có thể thực hiện được điều này?

Giáo dân Công giáo là các môn đệ của Đức Kitô. Giống như các giáo sĩ và tu sĩ, Thiên Chúa ghi dấu họ bằng chính hình ảnh của Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, qua các bí tích. Bởi chức tư tế chung của họ bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội, người giáo dân có thể biến đổi thực tại trần thế thông qua công việc của họ. “Tín hữu giáo dân được mời gọi vun trồng linh đạo giáo dân đích thực, qua đó họ được tái sinh thành những con người mới, được thánh hoá và trở nên những người thánh hoá, được dìm trong mầu nhiệm Thiên Chúa và được đặt vào lòng xã hội” (TLHT 545). (TLHT 542, 545)

Bài này đã được xem 1018 lần!

Pages ( 17 of 18 ): <1 ... 1516 17 18>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]