364. Có phải sứ mệnh của tín hữu giáo dân Công giáo chỉ gói gọn trong vấn đề các bí tích và cầu nguyện?
Không, người tín hữu giáo dân phải trở nên có năng lực hơn bao giờ hết trong công việc chuyên môn của họ, từ đó thực hiện các bổn phận xã hội và củng cố đời sống luân lý của họ. Họ phải cố gắng để có được các kỹ năng chuyên môn và kỹ thuật cần thiết cho công việc của họ cũng như để tăng trưởng về mặt đức hạnh. “Không thể có hai cuộc sống cùng tồn tại mà lại cứ song song với nhau, một đàng gọi là đời sống ‘tâm linh’ với những giá trị và những đòi hỏi của nó; đàng khác, được gọi là đời sống ‘trần thế’, nghĩa là đời sống trong gia đình, tại nơi làm việc, trong các mối quan hệ xã hội, trong những trách nhiệm của đời sống công cộng và trong văn hoá” (TLHT 546, trích dẫn CFL 59). (TLHT 546)
365. Mục tiêu của các Kitô hữu là gì khi làm việc cùng với người khác để cải thiện xã hội?
Mục đích thiết yếu của các Kitô hữu liên quan đến việc cải thiện xã hội là thăng tiến phẩm giá con người, vừa trong đời sống của các cá nhân cũng như trong các tổ chức và cấu trúc xã hội. Khi thực hiện nhiệm vụ này, việc chuyển đổi nội tâm của mỗi người phải được ưu tiên hơn so với việc đổi mới các thể chế và cấu trúc xã hội, vì mối quan tâm đối với người khác bắt nguồn từ sự biến đổi của chính tâm hồn mình. (TLHT 552)
366. Việc thăng tiến phẩm giá con người bắt đầu ở đâu?
Gia đình, các tổ chức giáo dục và Giáo hội dạy mọi người cách sống phù hợp với phẩm giá của họ. “Thăng tiến phẩm giá con người trước hết bao gồm việc xác định tính bất khả xâm phạm của quyền được sống, từ khi được thụ thai cho đến lúc chết một cách tự nhiên, là quyền thứ nhất trong các quyền và là điều kiện cho tất cả các quyền khác của con người” (TLHT 553). Hơn nữa, tôn trọng phẩm giá con người đòi hỏi phải tôn trọng chiều kích tôn giáo của con người, nghĩa là thật sự công nhận quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo của các cá nhân và tổ chức. Trong bối cảnh văn hoá hiện nay, cũng có một nhu cầu đặc biệt cấp bách là bảo vệ hôn nhân không thể phân ly giữa một người nam và một người nữ, và bảo vệ gia đình. (TLHT 553)
367. Các hiệp hội, các nhóm và các phong trào trong Giáo hội có thể hữu ích cho việc Phúc Âm hoá xã hội và hội nhập văn hoá đức tin không?
Các nhóm này có thể rất hữu ích vì họ đem mọi người lại với nhau nhân danh ơn gọi và sứ mệnh Kitô hữu của họ, và do đó, làm gia tăng các nỗ lực. Trao đổi kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau trong đời sống Kitô hữu về một lĩnh vực chuyên môn hoặc văn hoá cụ thể có thể thúc đẩy việc đào tạo các Kitô hữu trưởng thành. (TLHT 550)
368. Có phải lĩnh vực xã hội là lĩnh vực mà người Công giáo nên hợp tác với các giáo phái Kitô giáo khác và với các tín đồ trong các tôn giáo khác?
Giáo huấn Xã hội của Giáo hội là một công cụ đặc biệt giá trị để đối thoại giữa các Kitô hữu, với người Do Thái là anh chị của chúng ta trong đức tin và với các tín đồ trong các tôn giáo khác. Các vấn đề xã hội ngày nay rất phức tạp và khó khăn đến mức chúng chỉ có thể cùng được giải quyết. Sự hợp tác như vậy sẽ thúc đẩy nhận thức về tình huynh đệ mà chúng ta chia sẻ với các Kitô hữu khác và về di sản tinh thần của tất cả các tôn giáo là buộc mọi tín đồ phải đấu tranh cho hoà bình và phát triển. (TLHT 534-537)
369. Mục tiêu và mục đích tối hậu của Học thuyết Xã hội của Giáo hội là gì?
Mục tiêu và mục đích tối hậu của Học thuyết Xã hội của Giáo hội là sự cứu độ đời đời của các linh hồn. Điều này không thể tách khỏi việc xây dựng một “nền văn minh tình yêu” trên trái đất. Để đạt được mục đích này, Giáo hội đề xuất “những nguyên tắc và giá trị có thể duy trì một xã hội xứng hợp với con người. Trong số những nguyên tắc này, liên đới bao gồm tất cả các nguyên tắc khác một cách chắc chắn. Liên đới tượng trưng cho “một trong những nguyên tắc căn bản của quan điểm Kitô giáo về việc tổ chức xã hội và chính trị”. Tình yêu là sức mạnh duy nhất (x. 1Cr 12,31-14,1) có thể dẫn đến sự hoàn thiện bản thân và xã hội, cho phép xã hội tiến tới điều thiện hảo (TLHT 580). Điều này ngụ ý khám phá rằng tất cả các quyết định chính trị và các trao đổi kinh tế đều xuất phát từ các mối tương quan của con người và đều có một chiều kích nhân bản. (TLHT 580; CV 36)
Chủ đề Đặc biệt: Truyền thông và các Phương tiện Truyền thông Xã hội
NOBERTO GONZÁLEZ GAITANO
370. Thái độ chung của Giáo hội đối với truyền thông là gì?
Tất cả các phương tiện truyền thông đều rất quan trọng đối với xã hội, và do đó cũng quan trọng đối với đạo đức xã hội Công giáo. Kể từ Công đồng Vatican II (xem Công đồng Vatican II, Inter Mirifica, 1-2), và đặc biệt với những lời dạy của Giáo hoàng Gioan Phaolô II và bằng chứng về thái độ của ngài đối với các nhà báo và nhà truyền thông, Giáo hội đã nhấn mạnh quan điểm tích cực của mình đối với truyền thông. Đồng thời, Giáo hội liên tục kêu gọi cần phân định, vì “thế giới truyền thông đại chúng cũng cần sự cứu chuộc của Đức Kitô” (Gioan Phaolô II, Tông Thư Sự phát triển Nhanh chóng, 2005, 4). (TLHT 376; Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, 37)
371. Chúng ta có thể nói về một nền đạo đức truyền thông? Ai chịu trách nhiệm về nó?
Khi nói về các vấn đề đạo đức liên quan đến truyền thông, Giáo hội chủ yếu đề cập đến những người làm việc trong các phương tiện truyền thông nhiều hơn là “các công cụ” truyền thông xã hội. Nói thật ra, luân lý chỉ có ý nghĩa khi có liên quan đến sự tự do lựa chọn. Do đó, không phải các công cụ, nhưng những gì người ta làm với chúngmới là mối quan tâm đạo đức hàng đầu. Vì vậy, chúng ta có thể nói về các bổn phận luân lý của các nhóm khác nhau: nhà sản xuất truyền thông, nhà báo, nhà viết kịch bản, đạo diễn phim, nhiếp ảnh gia, biên tập viên, v.v.; các người chủ phương tiện truyền thông; cơ quan công quyền; và thậm chí người dùng phương tiện truyền thông. Mặc dù mọi người nói về “truyền thông” làm điều này hoặc điều nọ, nhưng đó không phải là một thế lực thiên nhiên mù quáng ngoài tầm kiểm soát của con người. Dù việc sử dụng các phương tiện truyền thông thường có các hậu quả ngoài ý muốn, cái chính vẫn là người ta chọn sử dụng các phương tiện truyền thông cho mục đích tốt hay xấu. (TLHT 560-561; EC 1)
372. Những nguyên tắc liên quan nhất của đạo đức truyền thông là gì?
Khởi đầu, phải nói rằng cộng đồng các ngôi vị và từng con người là mục đích và là thước đo của truyền thông. Các nguyên tắc và chuẩn mực luân lý liên quan trong các lĩnh vực khác cũng áp dụng đối với truyền thông xã hội: “Các nguyên tắc đạo đức xã hội như liên đới, bổ trợ, công bằng và bình đẳng và trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng các nguồn lực công cộng và việc thực hiện các vai trò tín thác công cộng luôn được áp dụng. Truyền thông phải luôn luôn trung thực, vì sự thật là điều thiết yếu cho tự do cá nhân và cho cộng đồng đích thực giữa mọi người” (EC 20). Sự thật đòi hỏi thêm sự truyền bá thông tin có trách nhiệm – nội dung truyền thông không được quảng bá sự bài ngoại, sự phân biệt đối xử hoặc chủ nghĩa dân tộc được ngụy trang thành chủ nghĩa yêu nước.
Trong những tình huống xung đột, truyền thông nên đứng về phía những người yếu,là những nạn nhân, chứ không phải đứng về phía những người quyền thế là “những người ra quyết định bởi họ có trách nhiệm luân lý nặng nề là phải công nhận các nhu cầu và lợi ích của những người dễ bị tổn thương đặc biệt. Truyền thông cũng phải đứng về phía người nghèo, người già và thai nhi, trẻ em và người trẻ, người bị áp bức và người bị gạt ra bên lề xã hội, phụ nữ và dân tộc thiểu số, người bệnh và người khuyết tật cũng như đứng về phía các gia đình và các nhóm tôn giáo” (EC 22). Đồng thời, trách nhiệm này phải thực hiện mà không được khai thác những người dễ bị tổn thương cho các mục đích của hệ tư tưởng. (TLHT 414-416; PT 90)
373. Cần lưu ý những gì khi sử dụng truyền thông?
“Bổn phận thứ nhất của những người sử dụng phương tiện truyền thông là phân định và chọn lọc. Các bậc phụ huynh, các gia đình và Giáo hội đều có những trách nhiệm rõ ràng không thể phủ nhận được” (TLHT 562). Trách nhiệm này có hai mặt: “điều hành” việc sử dụng phương tiện truyền thông của con cái họ và giáo dục con cái về các đức tính như đào luyện tính điều độ, phát triển óc phê bình và thúc đẩy các phán đoán khôn ngoan.
Người Công giáo có bổn phận nhận được thông tin chính xác về đời sống Giáo hội. Một mặt, điều này đòi hỏi tín hữu tìm các nguồn đáng tin cậy, và mặt khác, các mục tử phải minh bạch. Các tín hữu, các mục tử và những người làm việc trong lĩnh vực truyền thông của Giáo hội nên ý thức rằng những lời nói và hành động của họ là để phục vụ sự hoà hợp toàn vẹn của Giáo hội.
374. Giáo hội có ủng hộ tự do ngôn luận không?
Có. Giáo hội chủ trương tự do ngôn luận, điều này có liên quan chặt chẽ đến tự do tôn giáo. Nếu tự do này bị tước đoạt khỏi tự do kia, thì cả hai trở nên vô nghĩa, chỉ là các quyền tự do suông và hình thức bên ngoài. Cả tự do ngôn luận lẫn tự do tôn giáo đều bị đe doạ trong xã hội ngày nay, đặc biệt bởi những kẻ theo chủ nghĩa cực đoan tôn giáo và người theo chủ nghĩa tương đối bất khoan dung. Trong trường hợp chủ nghĩa bất khoan dung, nhiều người đã trở thành những chủ thể mà các giáo hoàng gần đây gọi là “chuyên chế” hay “độc tài” của chủ nghĩa tương đối. Họ không có sự thật, chính sức mạnh chi phối tất cả. Những người nắm quyền thường đe doạ và thậm chí làm câm lặng các tín hữu bằng áp lực chính trị và kinh tế, thao túng, hoặc thậm chí lạm dụng tâm lý. (PT 12)
375. Có các giới hạn đối với tự do ngôn luận không?
Như đã nói về tự do tôn giáo và lương tâm, các giới hạn chính đáng của việc thực thi quyền tự do ngôn luận “phải được xác định trong mỗi tình huống xã hội với sự thận trọng chính trị, căn cứ theo các đòi hỏi của công ích, và phải được xác nhận bởi nhà cầm quyền dân sự thông qua những chuẩn mực pháp luật phù hợp với trật tự luân lý khách quan” (TLHT 422).
376. Chính phủ có thể và nên can thiệp vào lĩnh vực ngôn luận này không?
Giáo huấn của Giáo hội về tự do lương tâm liên quan đến công ích có thể áp dụng dễ dàng đối với tự do ngôn luận. Chính phủ có thể và nên can thiệp khi cần thiết để “bảo vệ hữu hiệu các quyền của mọi công dân và để giải quyết trong hoà bình các xung đột quyền lợi, cũng như vì cần phải quan tâm đúng mức đến sự an bình chung đích thực, sự an bình này chỉ có được khi người ta sống với nhau trong trật tự tốt và trong công lý thật sự, và cuối cùng vì nhu cầu phải có sự bảo hộ đúng đắn về luân lý công cộng” (DH 7).
377. Điều gì làm cho phương tiện truyền thông xã hội này khác với các phương tiện truyền thông khác?
Phương tiện truyền thông xã hội phân biệt chính nó với phương tiện truyền thông “cũ” ở chỗ khán giả của nó tham gia tích cực hơn vào tiến trình truyền thông. Các người dùng cũng là nhà sản xuất nội dung, thay vì chỉ đơn thuần là người tiêu dùng. Các sàn truyền thông xã hội đã mở ra cả một thế giới, cho phép chúng ta chia sẻ cuộc sống, kiến thức, niềm vui và nỗi buồn với các anh chị em ta trên khắp hoàn cầu.
378. Một số thách thức đặt ra bởi các phương tiện truyền thông xã hội và các công nghệ mới là gì?
Phương tiện truyền thông xã hội và các công nghệ mới khác đặt ra những thách thức mới đối với nền văn hoá nhân bản vì chúng đang định hình các mối quan hệ cá nhân và thay đổi các mối quan hệ gia đình và xã hội: “Ngày nay, các phương tiện truyền thông hiện đại, là một phần thiết yếu đặc biệt trong cuộc sống của những người trẻ, có thể vừa là một sự trợ giúp và vừa là một trở ngại đối với việc giao tiếp trong và giữa các gia đình. Các phương tiện truyền thông có thể là một trở ngại nếu chúng trở thành một cách để khỏi lắng nghe người khác, để tránh tiếp xúc thể lý, để lấp đầy mọi thời khắc của im lặng và nghỉ ngơi, đến nỗi chúng ta quên mất rằng ‘im lặng là một yếu tố không thể thiếu trong giao tiếp; thiếu đi sự im lặng, những từ ngữ phong phú về nội dung không thể tồn tại được’ (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Sứ điệp Ngày Truyền thông Thế giới, 2012). Các phương tiện truyền thông có thể giúp cho việc giao tiếp khi chúng cho phép mọi người chia sẻ những câu chuyện của nhau, giữ liên lạc với bạn bè ở xa, cảm ơn người khác hoặc tìm kiếm sự tha thứ của họ, và mở cửa cho những gặp gỡ mới. Bằng việc nâng cao nhận thức hàng ngày của chúng ta về tầm quan trọng sống còn của việc gặp gỡ những người khác,… chúng ta sẽ sử dụng công nghệ một cách khôn ngoan, chứ không phải để cho mình bị nó thống trị. Ở đây cũng vậy, cha mẹ là những nhà giáo dục chính, nhưng họ không thể bị bỏ mặc với các thiết bị của mình. Các cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi để giúp đỡ họ trong việc dạy trẻ em làm thế nào để sống trong môi trường truyền thông một cách phù hợp với phẩm giá con người và phục vụ công ích”(Đức Giáo hoàng Phanxicô, Sứ điệp Ngày Truyền thông Thế giới, 2015). (LS 47)
Bài này đã được xem 1022 lần!