5. Nền nhân bản Kitô giáo có liên quan gì đến Giáo huấn Xã hội của Giáo hội?
Nền nhân bản Kitô giáo là mục đích chính của Giáo huấn Xã hội của Giáo hội: việc truyền tải nền nhân bản liên đới và toàn diện này, được thực hiện đầy đủ dưới ánh sáng của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người. Trong đó Giáo hội trả lời những câu hỏi sâu sắc nhất về sự tồn tại của con người, về địa vị con người trong tự nhiên, xã hội và lịch sử. “Đời sống con người, xã hội và lịch sử sẽ đi theo hướng nào tuỳ thuộc rất nhiều vào những câu trả lời mà chúng ta tìm được cho những câu hỏi về vị trí của con người trong thiên nhiên và xã hội. Mục đích của tập tài liệu này cũng là để góp phần đưa ra những câu trả lời này” (TLHT 15). (TLHT 14-15)
1. Tình yêu: Trung tâm của Giáo huấn Xã hội Công giáo
ELIZABETH REICHERT
Bác ái là trung tâm của Học thuyết Xã hội của Giáo hội. Mọi trách nhiệm và mọi cam kết được nêu ra bởi học thuyết đó đều bắt nguồn từ bác ái.
Bênêđictô XVI, CARITAS IN VERITATE, 2
Chúng ta bắt đầu với tình yêu bởi vì chính tình yêu, hơn cả công lý, mới có khả năng cải tạo các mối quan hệ giữa người với người. Và chính tình yêu mới khiến con người hoạt động cho hoà bình và công lý. Yêu là mong muốn điều tốt đẹp cho người khác và hành động để mang lại điều tốt đẹp đó, như thế,nó cũng bao gồm công ích: “Ta càng cố gắng mưu cầu công ích cho các nhu cầu thật sự của các người lân cận mình, ta càng yêu họ hữu hiệu hơn” (CV 7).
6. Phải chăng tình yêu, hay cụ thể hơn là bác ái, hoạt động chống lại việc thực thi công lý? Chẳng phải bác ái nhằm duy trì nguyên trạng bất công sao?
Một số ý kiến cho rằng bác ái trong thực tế lại hoạt động ngược với công lý; nó xoa dịu lương tâm của người giàu bằng cách đưa ra các giải pháp tạm thời cho người nghèo, mà không tìm cách loại bỏ các nguyên nhân ẩn tàng gây ra đói nghèo, do đó cứ tiếp tục chu kỳ bất công. Có một phần sự thật trong lập luận này, nhưng cũng có những sai lầm nghiêm trọng. Người ta không thể bỏ qua những nhu cầu hiện tại, tức thời của những người nghèo khổ để hy vọng xây dựng được một xã hội công bằng. “Ta không thể làm cho thế giới nhân bản hơn bằng cách từ chối hành động nhân đạo ở đây và lúc này” (DCE 31).
Vả lại, sẽ không bao giờ có một xã hội được tổ chức công bằng đến mức tình yêu trở nên thừa thãi, bởi vì tình yêu mang đến nhiều thứ hơn là chỉ có việc giúp đỡ về vật chất. “Tình yêu – caritas (bác ái) – vẫn luôn cần thiết, ngay cả trong xã hội công bằng nhất… Ai muốn loại bỏ tình yêu thì cũng đồng thời chuẩn bị loại bỏ con người cao quý. Sẽ luôn luôn có khổ đau cần đến sự an ủi và trợ giúp. Vẫn luôn có sự cô đơn… Sẽ không bao giờ có tình trạng không cần đến lòng bác ái của mỗi cá nhân Kitô hữu, bởi vì ngoài công lý mà con người đang cần, tình yêu mới là thứ con người sẽ luôn luôn cần” (DCE 28-29). (DCE 26-30; CV 6)
7. Vậy tương quan giữa bác ái và công bằng là gì?
“Không những công bằng không ở bên ngoài bác ái, không là một lựa chọn khác hoặc con đường song song với bác ái: nhưng luôn đi liền với bác ái, và ở bên trong bác ái. Công bằng là bước đường khởi đầu của bác ái hoặc, theo ngôn từ của Đức Phaolô VI, là ‘mức tối thiểu’ của bác ái” (CV 6).
Công bằng nghĩa là đưa cho người khác cái gì thuộc về họ. Bác ái nghĩa là cống hiến cái gì là “của tôi” cho người khác. Do đó, bác ái vượt quá công bằng, nhưng không bao giờ thiếu công bằng. Nếu tôi yêu người khác, trước tiên tôi phải hướng về họ; trước tiên tôi phải cung cấp cho họ cái gì là của họ theo lẽ công bằng. (CV6)
8. Tương quan giữa bác ái và sự thật là gì?
Thánh Phaolô giảng về sự cần thiết của veritas in caritate, sự thật trong bác ái (x.Ep 4,15). Không có bác ái, việc rao giảng sự thật trở nên quá khắc nghiệt và lạnh lùng. Tuy nhiên, điều ngược lại cũng quan trọng không kém – caritas in veritate, bác ái trong sự thật. “Không có sự thật, bác ái suy thoái thành tình cảm uỷ mị. Bác ái trở thành một cái vỏ trống rỗng, được lấp đầy một cách tuỳ tiện” (CV 3). Như đã nói ở trên, bác ái là trung tâm của Học thuyết Xã hội của Giáo hội, nhưng bác ái này phải luôn được khai sáng bởi sự thật. “‘Caritas in veritate’ là nguyên tắc xây dựng Học thuyết Xã hội của Giáo hội”(CV 6). (CV 1-6)
9. Nhìn vào Cựu Ước, điều gì khác biệt về sự mạc khải của Thiên Chúa đối với dân Israel?
Trong quá trình Thiên Chúa tự mạc khải dần dần cho nhân loại, nổi bật việc mạc khải của Ngài cho dân Israel vì Ngài tiết lộ chính Ngài là một Thiên Chúa có ngôi vị với một tình yêu đầy ý thức dành cho dân của Ngài. Ngài nghe và đáp lại tiếng than khóc của dân Ngài. “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập”(Xh 3,7-8). (TLHT 21; DCE 9)
10. Cựu Ước dạy gì về các mối quan hệ xã hội?
Luật (Torah) không chỉ dạy về lòng trung thành với Thiên Chúa, mà còn đề cập đến các mối quan hệ xã hội của người dân Israel. Mười Điều Răn đặc biệt làm sáng tỏ những bổn phận thiết yếu của con người, và do đó, gián tiếp làm rõ những quyền căn bản của họ. Các ngôn sứ kêu gọi cần nội tâm hoá các giáo huấn của Lề Luật, khiến cho những thái độ công bằng và liên đới dần dần được phổ biến khắp nơi để có thể lan rộng đến tất cả mọi người. (TLHT 22-25; DCE 9)
11. Điểm mới của Tân Ước trong mạc khải của Thiên Chúa về tình yêu đối với nhân loại là gì?
Đức Giêsu “tuyên bố: ‘Ai thấy Ta là thấy Cha’ (Ga 14,9). Nói cách khác, Đức Giêsu là sự biểu hiện cụ thể và rõ ràng để con người có thể cảm nhận được một cách chắc chắn Thiên Chúa đã hành động thế nào đối với con người” (TLHT 28). Sự mới lạ của Tân Ước không phải ở nơi ý tưởng, nhưng ở trong con người Đức Kitô, Đấng mạc khải tình yêu của Chúa Cha, và mạc khải cho tất cả chúng ta biết rằng mình được mời gọi trở thành con cái trong Thần Khí, và do đó là anh chị em của nhau. (TLHT 28-31, 33-37; DCE 12)
12. Trọng tâm giáo huấn của Đức Giêsu là mệnh lệnh có hai mặt là mến Chúa yêu người; nhưng tình yêu có thể “ra lệnh” được không?
Tình cảm đến rồi đi, nhưng mạc khải về tình yêu Thiên Chúa trong Đức Kitô làm ta thấy rõ tình yêu không chỉ đơn thuần là một thứ tình cảm. Đức Giêsu không đòi hỏi nơi ta một cảm xúc, và Ngài không áp đặt trên chúng ta một mệnh lệnh độc đoán từ ngoài vào. “Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (x. 1Ga 4,10), nên tình yêu bây giờ không còn là một “lệnh truyền” nữa, nhưng là lời đáp lại hồng ân tình yêu qua đó ta kéo Chúa đến gần mình” (DCE 1). (TLHT 32; DCE 1, 17-18)
13. Chính xác “yêu người”là hướng đến người nào?
Dụ ngôn người Samari Nhân hậu phổ quát hoá tình yêu đối với người lân cận, do đó xoá bỏ mọi giới hạn về quốc gia hoặc địa lý. Đức Giêsu dạy rằng mỗi người phải được đối xử như “chính mình”, ngay cả khi người đó là kẻ thù (x. Mt 5, 43-44). Tình yêu người lân cận hướng đến mọi người và mọi tầng lớp xã hội; tình yêu ấy“phải truyền cảm hứng, thanh lọc và nâng cao tất cả các mối quan hệ của con người trong xã hội và trong chính trị” (TLHT 33). (TLHT 33,40; DCE 14-15)
14. Nhưng, thực tế mà nói, trong số hàng tỷ người trên hành tinh, làm thế nào để tôi xác định được “người lân cận của mình”?
Nhờ hiện tượng toàn cầu hoá, chúng ta có thể biết về nhu cầu của những người khác gần như ngay lập tức, ngay cả nhu cầu của những người ở các vùng xa xôi nhất. Điều này đòi hỏi ta phải luôn sẵn sàng giúp đỡ, vì bây giờ hoạt động bác ái của chúng ta có thể và nên mở rộng đến các anh chị em của ta trên toàn thế giới. Đồng thời, chúng ta không thể để cho nhận thức này về các vấn đề trên toàn thế giới lại dẫn đến một thứ bệnh tê liệt, trong đó, ta bị choáng ngợp bởi nỗi đau khổ lớn lao, khiến ta đành bó tay không làm gì cả.
“Bất cứ ai cần đến tôi và tôi có thể giúp họ, đều là người lân cận của tôi. Ý niệm ‘người lân cận’ đã trở nên phổ quát nhưng vẫn rất cụ thể. Dù có nới rộng đến tất cả mọi người, từ này không được trở thành cách diễn tả cho một tình yêu chung chung xa vời, không có gì ràng buộc, nhưng nó đòi buộc sự dấn thân cụ thể của tôi ngay ở đây và bây giờ” (DCE 15). (TLHT 33, 40; DCE 15, 30-31)
15. Ta được mời gọi hãy yêu người lân cận, nhưng còn bản thân ta thì sao?
“Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình” (Mc 12,31). Do đó yêu Thiên Chúa và yêu người lân cận, không phải là hạ thấp giá trị của bản thân. Chỉ những người được tình yêu biến đổi mới có thể cải biến xã hội. Ta phải đáp ứng những nhu cầu của chính mình, về vật chất, xã hội và đặc biệt là tinh thần. Có một “ưu tiên dành cho sự hoán cải nội tâm” (TLHT 42, trích dẫn GLHTCG 1888) trên con đường mang lại sự thay đổi xã hội, một con đường đòi hỏi cần có ân sủng. “Sự biến đổi nội tâm con người, làm cho họ dần dần trở nên giống Đức Kitô, chính là điều kiện tiên quyết cần thiết để biến đổi thật sự các mối quan hệ của họ với người khác”(TLHT 42). (TLHT 41-44)
16. Sự hiểu biết Kitô giáo về ơn cứu độ có ảnh hưởng gì đến cách tiếp cận hành động xã hội của chúng ta?
Kitô hữu tin vào một nơi ở mới mẻ và vĩnh hằng được chuẩn bị cho mọi người – một trái đất mới nơi công lý ngự trị. “Niềm hy vọng này, chẳng những không làm suy yếu, mà còn làm tăng mối quan tâm của chúng ta đối với những gì cần làm trong thực tế hiện nay” (TLHT 56). Khác xa với việc dẫn đến sự thụ động, sự thật này thấm nhuần các Kitô hữu niềm khát khao được nếm trước trong thế giới này những gì sẽ được thực hiện đầy đủ trong thế giới sẽ đến. Hơn nữa, chúng ta tin rằng ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô được ban cho tất cả mọi người và cho toàn thể con người, trong mọi chiều kích của con người. Đức Kitô cứu chuộc không chỉ từng cá nhân mà còn cứu chuộc cả các quan hệ xã hội hiện hữu giữa những người nam và nữ. Đức Kitô không chỉ làm gương cho ta, Người còn biến mỗi người chúng ta thành một tạo thành mới, và với tư cách một tạo thành mới, chúng ta liền được ban ân sủng để “sống một đời sống mới” (Rm 6,4). (TLHT 38-41,52-58)
17. Điều này có nghĩa là chúng ta mong đợi đạt tới sự thành toàn ơn cứu rỗi này, sự cứu chuộc các quan hệ xã hội, trong thời đại hiện nay?
Ơn cứu độ này đã là một thực tại lịch sử; tuy nhiên, chúng ta nhận biết rằng ơn cứu độ đó sẽ hoàn thành trong tương lai. Ơn cứu độ có đặc trưng là “tính tương đối theo cánh chung học”, một loại “đã có rồi, nhưng chưa hoàn tất”. Điều này có nghĩa là tất cả các hoạt động văn hoá, xã hội, kinh tế và chính trị phải được hiểu là các thực tại tương đối và tạm thời. “Bất cứ quan điểm chuyên chính nào về Xã hội và Nhà nước, cũng như bất cứ ý thức hệ nào chủ trương tiến bộ chỉ gói gọn trong thế giới này thôi đều đi ngược với sự thật toàn diện về con người và ngược lại kế hoạch của Thiên Chúa trong lịch sử” (TLHT 48). (TLHT 38-39,48)
2. Giáo huấn Xã hội Công giáo nói gì về Sứ mệnh của Giáo hội?
ARTURO BELLOCQ
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han…. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Mt 25, 3
Qua các thời đại, những lời này đã vang vọng trong lương tâm của các Kitô hữu, thúc đẩy họ mở rộng trái tim và đưa tay ra trước nhu cầu của người khác. Mối quan tâm đối với nhân loại đã khiến Giáo hội phát triển một Giáo huấn Xã hội theo thời gian, có các nguồn gốc, mục đích riêng và bản chất đặc biệt.
18. Giáo hội có quan tâm đến lịch sử cụ thể của loài người không?
Giáo hội mong muốn ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với mỗi cá nhân, dù họ ở bất cứ đâu; do đó, Giáo hội chia sẻ với nhân loại vui mừng và hy vọng, buồn sầu và lo lắng, liên đới với mọi người nam nữ ở mọi nơi và mọi thời, và mang đến cho họ tin mừng về Nước Thiên Chúa. (TLHT 60; GS 1)
19. Tại sao Giáo hội quan tâm đến các tương quan xã hội?
Bởi vì đời sống xã hội (và cùng với đời sống xã hội là chính trị, kinh tế, lao động, pháp luật và văn hoá) thường quyết định phẩm chất cuộc sống, và như vậy, cũng quyết định các điều kiện mà trong đó mọi người nam nữ hiểu được bản thân mình và đưa ra các quyết định về ơn gọi của mình, Giáo hội không thể thờ ơ với những gì được quyết định, diễn ra hoặc trải nghiệm trong xã hội; Giáo hội chú ý đến phẩm chất đạo đức – nghĩa là các khía cạnh nhân bản và nhân bản hoá đích thực – của đời sống xã hội. (TLHT 62)
20. Giáo hội có sứ điệp riêng của mình về các tương quan xã hội không?
Có. Với ánh sáng đức tin, Giáo hội có một sự hiểu biết chuyên sâu những gì thuộc về con người, về nguồn gốc và cứu cánh của chúng ta, về hạnh phúc đích thực và những điểm yếu của chúng ta. “Quan điểm toàn cầu về con người và các thực tại thuộc về con người” (PP 13), mà Giáo hội cống hiến như đóng góp đặc biệt của Giáo hội, chiếu ánh sáng trên mạng lưới quan hệ xã hội phức tạp.“Giáo hội dạy cho con người biết các đòi hỏi của công lý và hoà bình, phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (TLHT 3, trích dẫn GLHTCG 2419). (TLHT 3, 63; GLHTCG 2419; PP 13)
21. Vậy, có phải giáo huấn của Giáo hội về các tương quan xã hội tạo nên một phần sứ mệnh siêu nhiên của Giáo hội?
“Sứ mệnh riêng biệt, mà Chúa Kitô đã uỷ thác cho Giáo hội Người, không thuộc phạm vi chính trị, kinh tế hay xã hội. Mục đích Người đã ấn định cho Giáo hội thuộc phạm vi tôn giáo” (GS 42). Nhưng từ trong sứ mệnh tôn giáo này, một ánh sáng và một năng lượng trào dâng có thể phục vụ cho việc cấu trúc cộng đồng nhân loại theo luật thần linh. Siêu nhiên và tự nhiên không phải là hai thực thể riêng biệt loại trừ nhau. “Không được hiểu siêu nhiên như một thực thể hay một địa điểm khởi đi từ nơi mà tự nhiên kết thúc, nhưng phải hiểu siêu nhiên là nâng tự nhiên lên một bình diện cao hơn. Nếu thế thì không có gì thuộc về trật tự tạo thành hay nhân loại mà xa lạ hay bị loại khỏi trật tự siêu nhiên hay trật tự thần học của đức tin và ân huệ, trái lại, tất cả đều tìm thấy trong trật tự siêu nhiên, đều được trật tự này đảm nhận và nâng cao” (TLHT 64). (TLHT 64; GS 42)
22. Giáo huấn Xã hội của Giáo hội có liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội không?
Không. Giáo huấn Xã hội có thẩm quyền riêng của mình, đó là quyền tuyên xưng Đức Kitô, Đấng Cứu chuộc. Điều này có nghĩa là Giáo huấn Xã hội của Giáo hội không can thiệp vào các vấn đề kỹ thuật – chúng tương ứng với các khoa học của con người – Giáo hội cũng không đề xuất hay thiết lập các hệ thống hoặc mô hình cụ thể về tổ chức xã hội. Giáo hội lại càng không đảm nhận nhiệm vụ chính trị là thể hiện thế nào cho xã hội có thể công bằng nhất. Việc xây dựng một xã hội công bằng – trong tất cả sự phức tạp về kỹ thuật của nó – là sứ mệnh của chính trị, không phải của Giáo hội. Tuy nhiên, tầm nhìn về con người và lợi ích thật sự của con người trong Đức Kitô, mà Giáo hội có được qua đức tin, là một đóng góp quan trọng cho “sự thanh lọc lý trí”, (DCE 28) khiến cho các đòi hỏi về công bằng được công nhận và đưa vào thực tế. (TLHT 68; DCE 28)
23. Giáo hội có quyền gì để công bố Giáo huấn Xã hội?
Giáo hội không chỉ có quyền mà còn có bổn phận công bố Giáo huấn Xã hội của mình. Đó là một phần không thể thiếu trong sứ mệnh mà Đức Kitô đã trao cho Giáo hội – là trở thành thầy dạy sự thật của đức tin. Sự thật này, được Giáo hội loan báo không chỉ bao gồm các tín điều, mà còn cả sự thật luân lý – bao gồm những sự thật về trật tự xã hội chính đáng – bắt nguồn từ Phúc Âm và từ chính bản tính con người. Những sự thật này cần thiết cho ơn cứu độ con người và cho hạnh phúc của con người trên trái đất. (TLHT 69-70; DH 14; BGL 747, §2)
Bài này đã được xem 1012 lần!