CẨM NANG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

24. Giáo huấn Xã hội của Giáo hội là một tổng hợp giáo huấn đơn giản hay phức tạp?

Giáo huấn Xã hội của Giáo hội ban đầu không được xem là một bộ giáo huấn quy củ, có hệ thống. Nó đã được hình thành theo thời gian thông qua nhiều sự can thiệp của Huấn quyền về các vấn đề xã hội. Vì lý do này, Giáo huấn Xã hội tạo thành một tổng hợp giáo huấn “phong phú và phức tạp” (Đức Gioan Phaolô II, Diễn từ ở Puebla, Mexico 1979, III.7), trong đó các nguyên tắc có giá trị vĩnh viễn được hoà lẫn với các giáo huấn có tính chất nhất thời đáp ứng nhu cầu cấp thiết tại một thời điểm cụ thể. Thực tế này đòi hỏi một sự phân định cẩn thận khi xác định một giáo huấn đạt đến mức độ nào trong thành phần Học thuyết Xã hội của Giáo hội. (TLHT 72)

25. Giáo huấn Xã hội Công giáo có phải là một hệ tư tưởng không?

Do hoàn cảnh đặc biệt của sự hình thành – có đặc trưng là nhiều lần đối đầu với những quan niệm trái ngược về con người và đời sống xã hội của con người – có người lẫn lộn Giáo huấn Xã hội Công giáo với một hệ tư tưởng, theo nghĩa là một đề xuất cụ thể như các dự án xã hội khác. Huấn quyền đã nói rõ rằng Giáo huấn Xã hội của Giáo hội không thuộc phạm trù tư tưởng, cũng không phải là “con đường thứ ba” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, nhưng đúng hơn giáo huấn này là thần học. Đó là việc công bố rằng sự thật đức tin soi sáng ý nghĩa tối hậu của các thực tại xã hội, và cho thấy những đòi hỏi phải thực hiện để tôn trọng con người. (TLHT 72; SRS 41)

26. Vậy chính xác Giáo huấn Xã hội của Giáo hội là gì?

Giáo huấn Xã hội của Giáo hội là “một sự trình bày chính xác những thành quả suy tư nghiêm túc về các thực tế phức tạp của đời sống con người, trong xã hội và trong trật tự quốc tế, dựa vào ánh sáng đức tin và truyền thống Giáo hội. Mục đích chính của sự trình bày này là lý giải các thực tại ấy, xác định xem chúng có phù hợp hay không với đường hướng giáo huấn của Tin Mừng liên quan đến con người và ơn gọi của con người, một ơn gọi vừa trần thế vừa siêu việt; mục đích là để hướng dẫn người Kitô hữu biết cách cư xử cho đúng” (TLHT 72, trích dẫn SRS 41). (TLHT 72; SRS 41)

27. Các nguồn của Giáo huấn Xã hội Công giáo là gì?

Như trong các lĩnh vực khác của thần học, các nguồn của Giáo huấn Xã hội Công giáo là Mạc khải và bản tính con người, đặc biệt là trong khía cạnh xã hội của nó. Đức tin hướng dẫn lý trí trong việc tìm kiếm cách thức tổ chức một xã hội xứng với con người; nhưng đức tin không thay thế cho lý trí trong nhiệm vụ của lý trí là tìm hiểu các khái niệm căn bản và động lực cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, vốn thuộc về các môn triết học và các khoa học xã hội khác nhau. (TLHT 74-75)

28. Vậy Giáo huấn Xã hội của Giáo hội có đối thoại với các khoa học xã hội không?

Có. Giáo huấn Xã hội cần các khoa học xã hội để có một sự hiểu biết đúng đắn về đối tượng của nó là các thực tại xã hội khác nhau. Giáo huấn Xã hội của Giáo hội tôn trọng quyền tự chủ chính đáng của các thực tại trần gian và các khoa học nhân văn khác nhau đang nghiên cứu các thực tại này. Tuy nhiên, Giáo huấn Xã hội mời gọi các khoa học này mở ra cho một sự thật đầy đủ hơn, được nhận biết bởi đức tin, để chúng có thể tìm thấy ý nghĩa tối thượng của mình và đóng góp cho sự phát triển đích thực của con người. (TLHT 76; GS 36)

29. “Quyền tự chủ chính đáng của các thực tại trần gian” là gì?

Các thụ tạo và các thực tại trần thế có những luật lệ và giá trị riêng của chúng và cần tôn trọng các luật lệ và giá trị đó. Điều này không có nghĩa là chúng đứng ngoài Thiên Chúa và sứ điệp Phúc Âm. Có những giới hạn về luân lý luôn luôn ràng buộc. “Không có Đấng Tạo Hoá, thụ tạo đều tiêu tan” (GS 36). Chẳng hạn, thị trường có luật riêng của nó, như luật cung cầu; tuy nhiên, thị trường phải tuân theo luật luân lý của Thiên Chúa. (TLHT 45; GS 36)

30. Giáo huấn Xã hội Công giáo có đề xuất học thuyết về xã hội, chính trị hoặc kinh tế của riêng mình không?

Không. Mạc khải không đề xuất bất kỳ loại hệ thống chính trị, kinh tế hoặc xã hội nào ở cấp các khoa học xã hội mà Giáo hội nên dạy hoặc quảng bá. Trong các lĩnh vực này, đức tin mời gọi lý trí hãy điều tra chân thực và chuyên cần để tìm ra các nguyên nhân và các giải pháp tốt nhất cho các vấn đề. Đức tin hướng dẫn lý trí bằng các nguyên tắc căn bản của đức tin liên quan đến con người và chiều kích xã hội của nó. Những nguyên tắc này có vai trò hướng dẫn, không đưa ra các câu trả lời cụ thể mà, trong nhiều trường hợp, tuỳ thuộc vào quan điểm của các khoa học nhân văn. (TLHT 72)

31. Ai hình thành Học thuyết Xã hội của Giáo hội?

Cũng như các lĩnh vực khác trong giáo huấn Kitô giáo, chính Giáo hội, với tư cách là người giữ gìn Mạc khải, hình thành và giảng dạy Học thuyết Xã hội. Mỗi thành viên của cộng đồng Giáo hội – các linh mục, tu sĩ, giáo dân, nhà thần học, nhà khoa học và mục tử – đóng góp theo đặc sủng và thừa tác vụ của mình. Tuy nhiên, chỉ có Huấn quyền mới có đủ tư cách dạy Học thuyết Xã hội với thẩm quyền. Trong trường hợp này, trọng lượng học thuyết của các giáo huấn khác nhau tuỳ vào bản chất của các giáo huấn, vào các yếu tố phụ thuộc và thay đổi của chúng, và vào việc chúng được viện dẫn thường xuyên. (TLHT 79-80)

32. Có cả yếu tố lâu dài và tạm thời trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội không?

Có lẽ nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác của thần học, Giáo huấn Xã hội của Giáo hội đan xen các nguyên tắc lâu dài hoặc vững bền khác nhau – liên quan đến Mạc khải và bản chất bất biến của con người – với các thích nghi tạm thời. Điều này là do các hoàn cảnh văn hoá, chính trị và kinh tế không ngừng thay đổi mà trong đó Giáo hội loan báo sứ điệp của mình. Hơn nữa, Giáo hội – cùng với nhân loại – tiếp tục tăng cường sự hiểu biết các thực tại xã hội phức tạp cũng như sự hiểu biết về việc đóng góp cụ thể do Phúc Âm đem lại (x. Bênêđictô XVI, Diễn từ Giáng sinh trước Giáo triều Rôma 2005). Đặc điểm cụ thể này của Giáo huấn Xã hội đòi hỏi sự phân định cẩn thận về phía những người tiếp nhận giáo huấn; nhưng, đó không phải là một điểm bất lợi, mà là một dấu hiệu cho thấy năng lực giáo huấn có thể đổi mới trong khi vẫn duy trì các nguyên tắc căn bản. (TLHT 80, 85-86; SRS 3; DonVer 24)

33. Nhiệm vụ công bố và tố cáo trong Giáo huấn Xã hội Công giáo là gì?

Vì hiểu biết sâu sắc về con người, Giáo hội có khả năng nhạy bén trong việc nhận ra những vi phạm đối với phẩm giá của con người và của các nhóm xã hội, và phải lên tiếng bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất. Nhưng trước khi thực thi nhiệm vụ tố cáo này, Giáo hội phải công bố sự thật về con người và xã hội mà Giáo hội có được, và rồi phải công bố các chuẩn mực và các hướng dẫn hành động rút ra từ những chuẩn mực đó. Với giáo huấn này, Giáo hội không tìm cách cấu trúc hay tổ chức xã hội, nhưng kêu gọi, hướng dẫn và đào luyện lương tâm. (TLHT 81)

34. Ai đón nhận Giáo huấn Xã hội Công giáo?

Tất cả các thành viên của Giáo hội đón nhận Giáo huấn Xã hội của Giáo hội. Mỗi tín hữu, theo ơn gọi của mình, phải đóng góp vào việc xây dựng một xã hội công bằng hơn. Cách riêng, giáo huấn này hướng đến giáo dân vì nó liên quan đến các trách nhiệm xây dựng, tổ chức và vận hành xã hội của người giáo dân: các nghĩa vụ chính trị, kinh tế và hành chínhthuộc về giáo dân vì liên quan đến bản chất thế tục của ơn gọi giáo dân, và không thuộc về các linh mục hoặc tu sĩ. Ánh sáng đức tin không làm suy yếu sức mạnh hợp lý của Giáo huấn Xã hội này, do đó cũng hướng đến tất cả những người nam, người nữ thiện chí bên ngoài Giáo hội. (TLHT 83)

35. Khi giáo dân hành động nhằm lan toả tinh thần Kitô giáo vào các thực tại xã hội, họ có hành động nhân danh Giáo hội không?

Không, khi giáo dân sắp đặt các thực tại trần gian theo tinh thần Phúc Âm, họ không hành động nhân danh Giáo hội, mà hành động với tư cách công dân của Nhà nước, theo trách nhiệm của chính họ. Giáo hội, do sứ mệnh tôn giáo của mình, không bị ràng buộc với bất kỳ hệ thống chính trị hay kinh tế nào. Thường thì chính quan điểm Kitô giáo về vạn vật sẽ hướng dẫn họ chọn một giải pháp nhất định nào đó tuỳ hoàn cảnh. Tuy nhiên, cũng có những tín hữu khác, với lòng chân thực không kém, sẽ thẩm định cách khác về cùng một vấn đề, như thường thấy xảy ra và vẫn được coi chính đáng” (GS 43). Tuy nhiên do tính cách ngẫu nhiên của các vấn đề xã hội, sẽ luôn có các lựa chọn khác nhau mang tính tạm thời nhưng vẫn chính đáng cho giáo dân, nghĩa là luôn luôn nằm trong các giới hạn của luân lý Kitô giáo. (DCE 29; GS 43, 76)

36. Giáo huấn Xã hội Công giáo ra đời khi nào?

Giáo hội luôn thể hiện mối quan tâm đến các vấn đề xã hội và đưa ra hướng dẫn liên quan đến các thực tại lịch sử luôn thay đổi. Được rút ra từ Mạc khải, và nhờ những lời dạy của các Giáo phụ và Tiến sĩ Giáo hội, một gia sản phong phú về luân lý xã hội Kitô giáo đã được hình thành theo thời gian. Tuy nhiên, các sự kiện kinh tế và chính trị của thế kỷ XIX đã biến đổi xã hội lớn lao đến độ cần có một nỗ lực mới để phân định các nguyên tắc căn bản về trật tự xã hội.Thông điệp Rerum Novarum của Đức Giáo hoàng Lêô XIII được coi là sự khởi đầu của phương cách mới này để đối mặt với các vấn đề xã hội một cách hệ thống và tổng hợp.

(TLHT 87-88; Gioan Phaolô II, Buổi Tiếp kiến chung ngày 13 tháng 5 năm 1981)

37. Những điểm trọng tâm trong huấn quyền xã hội của Đức Lêô XIII là gì?

Trong nhiều Thông điệp xã hội và chính trị của mình, Đức Lêô XIII đã giải thích giáo huấn Kitô giáo về thế quyền và tương quan của nó với giáo quyền, nêu rõ phán đoán của ngài về các hình thức mới của chính quyền và tổ chức xã hội, và đưa ra các tiêu chuẩn cho sự tham gia của các Kitô hữu vào đời sống chung. Phần nhiều trong số những giáo huấn này chứa các yếu tố tạm thời để đối phó với các hoàn cảnh và nói lên tâm thức của thời đại, nhưng nói chung, các tài liệu này thể hiện các nguyên tắc căn bản của đức tin về các vấn đề xã hội. Thông điệp Rerum Novarum có tầm quan trọng đặc biệt. Thông điệp đào sâu vấn đề lao động, nổi bật bởi các cuộc cách mạng kinh tế và chính trị của thế kỷ XIX. Văn kiện bác bỏ các lầm lỗi của thời kỳ này dẫn đến một số căn bệnh xã hội đưa ra một số giáo huấn về lao động, pháp luật và quyền sở hữu: nguyên tắc cộng tác thay cho đấu tranh giai cấp như phương tiện để thay đổi xã hội; quyền của kẻ yếu; phẩm giá của người nghèo và nghĩa vụ của người giàu; việc hoàn thiện công bằng trong bác ái; và quyền thành lập các hiệp hội ngành nghề.

38. Những lời dạy của Đức Piô XI đã đóng góp gì cho Giáo huấn Xã hội Công giáo?

Đức Piô XI buộc phải đối đầu với các cuộc khủng hoảng chính trị và kinh tế nghiêm trọng trong thời giáo hoàng của mình, và ngài đã ứng đáp bằng một số văn kiện quan trọng. Không lâu sau cuộc khủng hoảng nặng nề vào năm 1929, ngài công bố Thông điệp Quadragesimo Anno (1931) kỷ niệm bốn mươi năm Rerum Novarum. Trong Thông điệp này, ngài đã vạch ra các nguyên tắc xã hội Kitô giáo tại thời điểm công nghiệp hoá trùng với sự mở rộng quyền lực quốc gia và quốc tế của các thực thể tài chính. Thông điệp dạy về nguyên tắc bổ trợ và quan điểm tiền lương đủ sống có tầm quan trọng đặc biệt. Hơn nữa, Đức Piô XI không bao giờ ngừng lên tiếng chống lại các chế độ chuyên chính cầm quyền ở châu Âu trong thời giáo hoàng của ngài. Năm 1931, ngài đã phản đối sự tàn bạo của chế độ phát xít ở Ý bằng cách phát hành Thông điệp Non Abbiamo Bisogno (“Chúng tôi Không Cần”). Năm 1937, trong Thông điệp Mit Brennender Sorge (“Với Âu lo Cháy bừng”), ngài đã bác bỏ ý thức hệ Đức Quốc xã và các biện pháp đàn áp của chế độ Đức Quốc xã. (TLHT 91-92)

39. Huấn quyền xã hội của Đức Piô XII có những đặc điểm gì?

Đức Piô XII có trách nhiệm hướng dẫn Giáo hội trong Thế chiến Thứ Hai và sau đó trong quá trình tái thiết trật tự xã hội. Dù ngài không viết bất kỳ Thông điệp xã hội nào, ngài luôn thể hiện sự quan tâm đối với những biến động trong trật tự quốc tế. Trong nhiều bài phát biểu và các sứ điệp phát thanh về các vấn đề xã hội, ngài nhấn mạnh sự cần thiết phải có mối quan hệ hài hoà giữa pháp luật và luân lý để có thể xây dựng trật tự xã hội đúng đắn ở cấp quốc gia và quốc tế. Ngoài ra, trong nhiều cuộc gặp gỡ với mọi người thuộc các tầng lớp xã hội và các hiệp hội nghề nghiệp khác nhau, ngài đã đưa ra các hướng dẫn cụ thể về các cách đóng góp cho công ích.

40. Triều giáo hoàng Gioan XXIII, trong lĩnh vực Giáo huấn Xã hội, có các đặc điểm chính gì?

Với tư cách và giáo huấn của mình, Đức Gioan XXIII đã thúc đẩy việc phổ biến Giáo huấn Xã hội Công giáo, trong cuộc đối thoại với mọi người thiện chí. Trong những năm đánh dấu bằng sự phục hồi sau chiến tranh, bằng sự khởi đầu quá trình phi thực dân hoá và các dấu hiệu đầu tiên về sự đối thoại giữa các khối Mỹ và Liên Xô, Đức Gioan XXIII cho thấy mình có khả năng đọc được “những dấu hiệu của thời đại” và lý giải chúng dưới ánh sáng Phúc Âm (GS 4). Ngài viết hai Thông điệp xã hội. Thông điệp thứ nhất, Mater et Magistra (1961), cập nhật Giáo huấn Xã hội của Rerum Novarum trong bối cảnh các vấn đề xã hội đã lan rộng khắp xã hội, và nói về một số vấn đề cụ thể bao gồm nông nghiệp, các quan hệ giữa các nước nghèo và nước giàu, và vấn đề nhân khẩu. Thứ hai, Pacem in Terris (1963), đề cập đến các điều kiện để xây dựng hoà bình trong nước và quốc tế, và sự cần thiết tôn trọng các quyền con người. (TLHT 94-95)

41. Công đồng Vatican II có tầm quan trọng như thế nào đối với Giáo huấn Xã hội Công giáo?

Công đồng là thời điểm rất quan trọng đối với Giáo huấn Xã hội Công giáo; Công đồng đã mang lại một sự phản ảnh sâu sắc về sứ mệnh của Giáo hội trên thế giới, và do đó cũng phản ảnh về sự đóng góp của Giáo hội để giải quyết các vấn đề xã hội. Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes phác thảo khuôn mặt của một Giáo hội “thật sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử nhân loại” (GS 1). Giáo hội đồng hành với nhân loại và cùng chịu đựng chung với nhau các hoàn cảnh trần thế; nhưng đồng thời, Giáo hội phục vụ “như men và linh hồn của xã hội loài người, một xã hội phải được đổi mới trong Đức Kitô và trở nên gia đình của Thiên Chúa” (GS 40). Gaudium et Spes trình bày một cách hệ thống về đời sống văn hoá, kinh tế và xã hội, hôn nhân và gia đình, cộng đồng chính trị, hoà bình và cộng đồng các quốc gia, tất cả dưới ánh sáng của nhân học Kitô giáo và sứ mệnh của Giáo hội. Một tài liệu Công đồng quan trọng khác trong tổng hợp Giáo huấn Xã hội Công giáo là tuyên ngôn Dignitatis Humanae, trong đó quyền tự do tôn giáo được tuyên bố rõ ràng, kèm theo những xác minh quan trọng về tương quan giữa tôn giáo và chính quyền. (TLHT 96-97)

42. Đức Phaolô VI có những đóng góp gì cho Giáo huấn Xã hội Công giáo?

Đức Phaolô VI đã viết hai Thông điệp xã hội quan trọng. Trong Thông điệp Populorum Progressio (1967), ngài giải thích giáo huấn Kitô giáo về sự phát triển xã hội đích thực – phát triển phải toàn diện, “phát triển của mỗi người và toàn thể con người” (PP 14) – và thúc giục những người có quyền lực hành động để liên đới với những người dễ bị tổn thương nhất. Cũng trong năm đó, Đức Giáo hoàng thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình “thúc đẩy cộng đồng Công giáo đẩy mạnh sự phát triển tại các nơi nghèo đói và đẩy mạnh công bằng xã hội trên thế giới” (TLHT 99, trích dẫn GS 90). Sau đó, trong tông thư Octogesima Adveniens (1971), giữa những tranh cãi về ý thức hệ mạnh mẽ trong và ngoài Giáo hội, ngài suy tư về xã hội hậu công nghiệp với nhiều vấn đề phức tạp của nó, nhấn mạnh sự không phù hợp của các hệ tư tưởng hiện nay trong việc đáp ứng những thách đố của thời đại: như việc đô thị hoá, tình trạng của những người trẻ, hiện tình phụ nữ, nạn thất nghiệp, sự phân biệt đối xử, di cư, gia tăng dân số, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông và vấn đề sinh thái. (TLHT 98-100)

Bài này đã được xem 1577 lần!

Pages ( 3 of 18 ): <12 3 45 ... 18>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]