CẨM NANG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

43. Các văn kiện xã hội quan trọng nhất của Đức Gioan Phaolô là gì?

Triều giáo hoàng lâu dài và nhiều thành quả của Đức Gioan Phaolô II đóng góp rất lớn cho các vấn đề xã hội, bao gồm ba Thông điệp xã hội. Laborem Exercens (1981) tập trung vào lao động của con người vì lao động là chìa khoá cho toàn bộ vấn đề xã hội. Lao động của con người không thể giảm thiểu chỉ còn vào các khía cạnh khách quan và vật chất của nó, nhưng nên được coi là nơi thực hiện ơn gọi cá nhân, tự nhiên và siêu nhiên. Sollicitudo Rei Socialis (1987) trở lại với chủ đề phát triển để đưa ra các hàm ý luân lý và nghĩa vụ luân lý mà Thông điệp đặt ra cho con người trong thế giới ngày nay; Thông điệp vạch ra ý nghĩa Kitô giáo và nhân bản của việc liên đới giữa các quốc gia và các nhóm xã hội khác nhau, và cũng giải thích chi tiết về bản chất của Giáo huấn Xã hội Công giáo như thể là một môn thần học. (TLHT 101-103)

44. Đức Bênêđictô XVI đã để lại cho ta các giáo huấn nào liên quan đến các vấn đề xã hội?

Đức Bênêđictô XVI viết một Thông điệp xã hội, Caritas in Veritate (2009), trong đó ngài phân tích các nguyên nhân cuộc khủng hoảng văn hoá sâu sắc của xã hội và đề xuất một nền nhân bản Kitô giáo mới, tập trung vào bác ái như tiêu chí căn bản của mọi quan hệ xã hội. Trong nhiều dịp, ngài suy tư về sứ mệnh của Giáo hội trong xã hội và sự đóng góp mà đức tin mang lại cho các vấn đề xã hội, cách riêng bằng lý trí với vai trò hỗ trợ, nhưng đức tin đó thường bị đe doạ bởi chủ nghĩa tương đối, trong việc nhận thức các nghĩa vụ đạo đức.

45. Những đặc điểm chính trong giáo huấn của Giáo hoàng Phanxicô về các vấn đề xã hội là gì?

Bằng lời nói và hành động, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phổ biến rộng rãi, cả bên trong lẫn bên ngoài Giáo hội, một nhận thức lớn hơn về các vấn đề xã hội và văn hoá nghiêm trọng của thời đại chúng ta, kêu gọi mọi người thiện chí quan tâm đến trách nhiệm cá nhân và xã hội của họ. Tinh thần nghèo khó Phúc Âm, có đặc trưng là không dính bén của cải vật chất và quan tâm đến những người nghèo nhất,là hai tiêu chí phải luôn có trong một xã hội mong muốn xứng đáng với con người. Trong Thông điệp xã hội Laudato Si’, Đức Giáo hoàng đề cập đến nhiều vấn đề thời đại với ý tưởng về một “hệ sinh thái toàn diện”, biết tôn trọng tất cả các chiều kích con người và xã hội. Đối nghịch với các nền văn hoá cá nhân chủ nghĩa hiện nay, hệ sinh thái này nhận ra rằng mọi thứ đều được kết nối, và do đó các quyết định của chúng ta phải dựa trên các mối quan tâm về sinh thái, xã hội và kinh tế với một nhận thức rằng chúng ta có chung một nguồn gốc, chúng ta thuộc về nhau và đều có trách nhiệm đối với các thế hệ tương lai.

3. Phẩm giá của con người là Cốt lõi và Nền tảng của Giáo huấn Xã hội Công giáo

MARTIN SCHLAG

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,

Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.

Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất”.

St 1,27-28

Mỗi con người được tạo ra theo hình ảnh Thiên Chúa, được ban phẩm giá và các quyền bất khả xâm phạm và các bổn phận bất khả chuyển nhượng. Con người vừa là nền tảng vừa là mục tiêu của xã hội, và do đó, nhiệm vụ chính của mọi xã hội là bảo vệ và cổ vũ phẩm giá con người bằng luật pháp và thể chế của mình.

46. ​​Nhân phẩm là gì?

Nhân phẩm là nguyên tắc thứ nhất và quan trọng nhất trong tất cả các nguyên tắc xã hội. Phẩm chất này vốn tự nhiên có trong mỗi người, cũng có thể diễn tả bằng ý tưởng rằng mọi người sở hữu các quyền không thể tước đoạt ngay từ giây phút thụ thai. Trong thực tế, phẩm giá có nghĩa là không người nào bị hạ giá đến mức chỉ còn là một phương tiện hoặc một công cụ cho những mục đích đi ngược với sự phát triển cá nhân của chính họ. Cách riêng, sự sống và phẩm giá của con người không bị hy sinh cho mục tiêu nghiên cứu khoa học, hoặc các mục tiêu kinh tế, quân sự, xã hội hoặc chính trị. (TLHT 133)

47. Có phải phẩm giá con người chỉ cấm làm suy đồi người khác?

Không. Đây chỉ là biểu hiện cốt lõi hoặc tối thiểu của phẩm giá con người. Cốt lõi này đòi hỏi phải bảo vệ mỗi người chống lại việc đối xử xuống cấp của các cá nhân khác hoặc của toàn xã hội. Phẩm giá con người theo nghĩa này không thể bị tước đoạt, dù họ là tên tội phạm tồi tệ nhất. Đó là vì phẩm giá con người không phải do họ kiếm được hoặc do người khác ban cho mà chỉ đơn giản là họ có được. Ngoài ra, phẩm giá con người cũng có một chiều kích tích cực, đó là điểm tối đa, hoặc là biểu hiện luân lý của nó: mỗi con người đều được kêu gọi đạt đến điểm xuất sắc về luân lý và cần cố gắng thăng hoa bằng cách thể hiện phẩm giá mình qua một cuộc sống đức hạnh. Điều này còn có nghĩa là, chúng ta có thể hành động bất xứng với phẩm giá của mình, do đó ta làm biến dạng phẩm giá đó. Theo nghĩa này, phẩm giá con người hướng nhiều về việc sống đạo đức hơn là sở hữu các quyền. (TLHT 133-134)

48. Trước khi ta có thể nghĩ đến các hệ quả của phẩm giá con người đối với đạo đức xã hội, ta phải hiểu định nghĩa về một “xã hội”. Vậy xã hội là gì?

Xã hội là một tập thể gồm những con người được liên kết với nhau một cách hữu cơ theo một nguyên lý hợp nhất nào đó, vượt quá mỗi cá nhân. Với tư cách là một cộng đồng vừa hữu hình, vừa tinh thần, một xã hội tồn tại trong thời gian: nó tiếp nhận quá khứ và chuẩn bị tương lai” (GLHTCG 1880). Nói cách đơn giản, xã hội là một nhóm người được kết hợp bởi công ích. (GLHTCG 1880)

49. Tại sao xã hội ra đời?

Mọi người nối kết với nhau hình thành nên xã hội vì tiện ích chung và tình thân hữu. “Chính vì yêu quý điều có ích cho mình và cho người khác mà người ta quy tụ thành những tập thể bền vững nhằm mục đích đạt đến công ích” (TLHT 150). Một số “xã hội, như gia đình và cộng đồng dân sự, phù hợp một cách trực tiếp hơn với bản tính con người. Chúng cần thiết cho con người” (GLHTCG 1882). Tuy nhiên, xã hội cũng có thể biến thành một loại áp bức hoặc thậm chí chuyên chính. Đó là lý do tại sao Giáo hội dạy rằng công pháp phải phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa, là nguồn cội duy nhất cho tự do của chúng ta. Giáo hội cũng nhấn mạnh nguyên tắc bổ trợ để tránh áp bức. Con người không ai giống hệt nhau; mỗi người chúng ta theo đuổi hạnh phúc bằng nhiều cách khác nhau. Chủ nghĩa đa nguyên xã hội này vẫn lành mạnh bao lâu còn nằm trong các giới hạn của luật luân lý do Thiên Chúa quy định, là bộ luật chỉ cho ta con đường dẫn đến hạnh phúc. (TLHT 150-151)

50. Phẩm giá con người từ đâu đến?

Phẩm giá con người xuất phát từ việc mỗi người nam và người nữ là hình ảnh sống động của chính Thiên Chúa và được kêu gọi hưởng sự sống đời đời. Mặc dù chúng ta đã làm biến dạng hình ảnh Thiên Chúa trong ta qua tội lỗi, hình ảnh ấy vẫn không bị phá huỷ hoàn toàn; Đức Kitô, hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa, đã tái tạo bản tính con người và kết hợp bản tính ấy với Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần. (TLHT 105)

51. Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa nghĩa là gì?

Nghĩa là mỗi con người, dù xem ra yếu đuối và chẳng quan trọng gì trong con mắt người khác, lại đại diện cho Thiên Chúa trên trái đất: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”(Mt 25,40). Mỗi người là một hữu thể độc đáo và riêng biệt. Mỗi đứa trẻ được thụ thai, đều hình thành nên một cái gì đó kỳ diệu và tuyệt vời cho thế giới này.Chỉ bằng cách đơn giản có mặt là mỗi người đều có quyền hiện hữu. (TLHT 131)

52. Ta có thể học thêm được điều gì từ Thánh Kinh về phẩm giá con người?

Chúng ta biết rằng Thiên Chúa tạo ra người nam và người nữ như những cá nhân tự do và có trách nhiệm, đồng thời là những ngôi vị trong các mối tương quan. (TLHT 108)

53. “Bản ngã cá nhân” nghĩa là gì?

Trở thành một bản ngã cá nhân có nghĩa là một con người hiện hữu như một cái “tôi”, có thể hiểu được chính mình, tự làm chủ mình và tự mình quyết định.

Con người là một thực thể làm chủ thể, một người có ý thức và tự do, mà những kinh nghiệm sống độc đáo của họ không thể tương đồng với những kinh nghiệm của bất cứ ai khác. Ngôi vị đó, bao gồm cả thân xác của người ấy, được giao phó trọn vẹn cho chính người ấy, nên họ phải chịu trách nhiệm về mặt luân lý cho các hành động của riêng mình. (TLHT 127, 131)

54. Tại sao mối quan hệ rất quan trọng đối với ta nếu ta đã là một bản ngã cá nhân?

Phẩm giá con người không thể giải thích nếu tách ra ngoài tương quan của ta với Thiên Chúa, với người khác và với tạo thành. Không phải trí thông minh cũng không phải sự tự chủ của chúng ta, không phải bản ngã cá nhân hay tư cách cá nhân hoặc các phẩm chất cá nhân có thể đủ để làm nên phẩm giá con người. Thánh Kinh dạy chúng ta rằng con người được tạo ra trong mối quan hệ với Thiên Chúa: ta có phẩm giá vì ta có thể liên hệ với Thiên Chúa như những người con được Ngài yêu thương. Không có sinh vật nào khác (trừ các thiên thần) có thể làm điều này. Toàn bộ đời sống và phẩm giá của ta về mặt căn bản và cấu thành là một câu trả lời đối với tình yêu Thiên Chúa. “Con người là một ngôi vị do Thiên Chúa tạo dựng để có mối liên hệ với Ngài; chỉ trong mối liên hệ này, con người mới tìm được sự sống, mới thể hiện chính mình và hướng về Thiên Chúa một cách tự nhiên” (TLHT 109). (TLHT 109)

55. Nếu ta được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, vậy có phải ta cũng được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi?

Có. Điều này được Thánh Kinh diễn tả rằng Thiên Chúa ban đầu tạo ra con người trong mối quan hệ giữa nam và nữ: Thiên Chúa tạo ra con người như một cặp vợ chồng, như một “chúng ta”để nói lên sự hoà hợp với nhau. Từ “chúng ta” này chính là một hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong Chúa Ba Ngôi, mỗi Ngôi Vị Thiên Chúa trao ban hoàn toàn chính mình cho Hai Ngôi kia. Một cách tương tự, với tư cách là những con người, chúng ta khám phá ra mình là những ngôi vị có phẩm giá chỉ khi nào ta biết chân thành trao hiến bản thân mình. (TLHT 111; CV 53-55)

56. Còn những người không kết hôn thì sao? Họ có thể sống theo tiếng gọi tương quan này không?

Có. Tự bản chất chúng ta là những hữu thể có quan hệ và sống trong xã hội. Sống trong cộng đồng là một đặc điểm tự nhiên giúp phân biệt con người với các thụ tạo khác trên trái đất. Ngay từ khi bắt đầu hiện hữu, con người được gọi bước vào đời sống xã hội. Những người từ chối hôn nhân vì Nước Thiên Chúa, do đã nhận được lời kêu gọi sống độc thân, thì họ càng thể hiện đầy đủ lời kêu gọi sống hoà hợp này, mỗi người theo ơn gọi riêng của mình, dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân. (TLHT 110, 112-114, 149)

57. Bản chất con người là xã hội, nhưng tội lỗi đã ảnh hưởng đến các mối quan hệ của chúng ta như thế nào?

Tính kiêu ngạo, ích kỷ và những tội lỗi khác khiến ta đóng kín vào mình và cám dỗ ta thống trị người lân cận. Tất cả chúng ta đều đã phạm tội, nhưng tất cả chúng ta cũng đã được cứu chuộc bởi cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Với tinh thần thực tế, người Kitô hữu nhìn thấy các vực thẳm của tội lỗi, nhưng luôn nhìn thấy chúng trong ánh sáng hy vọng nhờ công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô mang lại, trong đó tội lỗi và cái chết bị tiêu diệt. Niềm hy vọng này lớn hơn bất kỳ sự dữ nào. (TLHT 120-123, 150)

58. Tội lỗi có hậu quả gì đối với đời sống xã hội?

Tội lỗi là một vết thương có hai mặt ảnh hưởng đến bản ngã thâm sâu nhất và các mối quan hệ của con người. Tội lỗi luôn luôn có mặt ở tận gốc rễ của những chia rẽ đau thương nơi từng cá nhân và xã hội. Đó là lý do tại sao ta có thể nói đến tội lỗi trong các chiều kích cá nhân và xã hội của nó. Mỗi tội về thực chất là hành vi riêng tư của một cá nhân; tuy nhiên, tội cũng mang tính xã hội khi nó gây nên các hậu quả xã hội trong chừng mực nào đó. Vì thế, ân huệ chữa lành của Thiên Chúa cũng mở rộng đến đời sống xã hội, cứu chữa các mối quan hệ của con người. (TLHT 116-117)

59. Chẳng phải các cơ cấu tội lỗi hay các cơ cấu của tội phá hoại hạnh phúc của con người sao?

Vâng. Mỗi tội nghịch đức công bằng khiến ta nợ người khác đều là một tội xã hội. Khi nhiều người lặp lại những tội lỗi này, là hình thành một cơ cấu của tội và làm lây lan cơ cấu đó. Những cơ cấu tội lỗi này có thể trở thành phong tục xã hội hoặc thậm chí trở thành luật lệ. Như thế, các hậu quả của tội lỗi duy trì các cơ cấu của tội khiến cho các cơ cấu này ngày càng lớn mạnh và trở thành nguồn gốc của những tội khác, làm phát sinh suy nghĩ và hành vi của con người chống lại ý Thiên Chúa và lợi ích của người lân cận. Cơ cấu của tội “ẩn sâu trong tội cá nhân, và bởi đó, luôn có liên quan với các hành vi cụ thể của người phạm tội, làm cho các cơ cấu ấy thêm vững chắc và càng khó diệt trừ” (TLHT 119). (TLHT 118-119)

60. Làm sao ta có thể thắng được các cơ cấu của tội?

Ta có thể thắng các cơ cấu của tội bằng cách can đảm chống lại và tố cáo chúng, với tư cách cá nhân và cùng với những người khác trong xã hội. Các hành động liên kết với nhau là đặc biệt cần thiết để thay đổi văn hoá nơi ta sống và để tác động đến mức độ của cơ cấu. (TLHT 118)

61. Phẩm giá con người có ý nghĩa gì đối với đạo đức xã hội?

Hiểu rằng phẩm giá con người là nguyên tắc xã hội trước tiên và quan trọng nhất có nghĩa là ta nợ mỗi người và mọi người sự tôn trọng và nhìn nhận ngôi vị của họ. Hiểu biết phẩm giá con người cũng có nghĩa là việc tôn trọng và nhìn nhận phẩm giá ấy không phải là kết quả của luật dân sự, nhưng đã cótừ trước khi xã hội được hình thành. Xã hội hiện hữu là để bảo vệ và cổ vũ phẩm giá con người. Mọi xã hội phải chấp nhận và bảo vệ phẩm giá con người bằng pháp luật và mọi phương tiện chính đáng khác có được, bắt đầu bằng việc bảo vệ sự sống vô tội, bởi vì phẩm giá không được ban cho ta bằng bất kỳ quyết định nào của con người mà là một món quà của Thiên Chúa. Do đó, nguyên tắc xã hội về phẩm giá con người cũng có nghĩa là sự công nhận mỗi người và mọi người như một nhân vị không phải do những nỗ lực hoặc công trạng của người đó. Không giống như sự trân trọng hoặc uy tín xã hội, tự cốt lõi của nó, phẩm giá không phải là do tranh thủ mà có được. (TLHT 153)

62. Điều này có ý nghĩa gì đối với bất kỳ xã hội nào?

Một xã hội chỉ thật sự đúng là xã hội nếu đặt nền tảng trên và đạt tới mức là sự tôn trọng phẩm giá siêu việt của con người. Xã hội hướng tới nhân vị như cứu cánh tối hậu của mình.

63. Phẩm giá con người có tầm quan trọng như thế nào đối với Giáo huấn Xã hội của Giáo hội?

Nguyên tắc về phẩm giá bất khả xâm phạm của con người là trung tâm và linh hồn của tư tưởng xã hội Công giáo. Toàn bộ Học thuyết Xã hội của Giáo hội phát triển từ chỗ đó, và khẳng định tính trung tâm của nhân vị trong mọi lĩnh vực và biểu hiện của xã hội. Con người là “chủ thể, nền tảng và mục tiêu của xã hội” (TLHT 106). (TLHT 106-107)

64. Nguyên tắc xã hội về phẩm giá con người có được chấp nhận rộng rãi không?

Ngày càng có nhiều hiến pháp và hiệp định quốc tế công nhận nguyên tắc phẩm giá con người. Tuy nhiên, nguyên tắc này luôn bị đe doạ bởi các quan niệm giảm thiểu phẩm giá con người. Một số trong các quan niệm này mang tính hệ tư tưởng hoặc đơn giản chỉ là kết quả của các thực hành phổ biến. Mẫu số chung của những việc giảm thiểu này là người ta quá nhấn mạnhđến một trong những đặc điểm của người nam và người nữ như hình ảnh của Thiên Chúa nhưng lại loại bỏ những thứ khác. Do đó, họ nhấn mạnh chủ nghĩa cá nhân (như trong các hình thức của chủ nghĩa duy vật thực dụng sẵn sàng hy sinh người chưa sinh ra và người bệnh cho những ham muốn cá nhân) hoặc nhấn mạnh đến tính cách tương đối của con người (như trong chủ nghĩa tập thể). Giáo huấn Xã hội của Giáo hội giữ được sự cân bằng giữa hai đặc điểm này. (TLHT 124-125)

Bài này đã được xem 1030 lần!

Pages ( 4 of 18 ): <123 4 56 ... 18>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]