65. Thế nào là giáo huấn của Giáo hội về phẩm giá con người – đó không phải là một hệ tư tưởng hay sao?
Không, Giáo huấn Xã hội của Giáo hội không phải là một hệ tư tưởng bởi vì nó dựa trên sự thật về con người được Thiên Chúa đã mạc khải. Trong đức tin Kitô giáo, Thiên Chúa được mạc khải là sự thật (x. Ga 14,6) đồng thời cũng là tình yêu (x. 1Ga 4,8). Bởi vì sự thật và tình yêu trong Thiên Chúa là đồng nhất, nên sự thật mà Giáo hội dạy về con người và xã hội không được áp đặt bằng bạo lực. Thực tế, phẩm giá con người, với tính cách một nguyên tắc, phát xuất từ tình yêu hơn là từ công lý, mặc dù phẩm giá con người đòi hỏi pháp luật phải bảo vệ nó.
66. Nhiệm vụ của Giáo hội liên quan đến phẩm giá con người là gì?
Nhiệm vụ mục vụ của Giáo hội liên quan đến phẩm giá con người có hai mặt: một mặt, Giáo hội công bố các nền tảng Kitô giáo của phẩm giá này; mặt khác, Giáo hội tố cáo những vi phạm đối với phẩm giá con người. Thật không may, lịch sử loài người chứa đầy những chối từ ghê tởm và khủng khiếp nhất về phẩm giá con người. Để đạt được hiệu quả cao hơn trong sứ mệnh của mình, Giáo hội cũng mở ra cho “sự cộng tác đại kết, đối thoại với các tôn giáo, tiếp xúc thích đáng với các tổ chức khác, bất luận thuộc chính phủ hay phi chính phủ, ở cấp quốc gia hay quốc tế. Trên hết, Giáo hội cậy dựa vào sự giúp đỡ của Chúa và của Thánh Thần Ngài, vì khi được đổ vào tâm hồn con người, Thánh Thần ấy chính là bảo đảm chắc chắn nhất cho công bằng và nhân quyền được tôn trọng, cũng như góp phần đem lại hoà bình” (TLHT 159). (TLHT 159)
67. Những nguyên tắc xã hội quan trọng nào khác làm nên thành phần của nguyên tắc phẩm giá con người?
Tự do và bình đẳng là những thành phần của nguyên tắc xã hội về phẩm giá con người.
68. Tại sao tự do rất quan trọng trong đức tin Kitô giáo?
Tự do quan trọng trong đức tin Kitô giáo vì chúng ta chỉ có thể tin và yêu Chúa trong sự tự do. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta tự do như một trong những biểu hiện cao nhất của việc tạo dựng nên ta theo hình ảnh của Ngài. (TLHT 136)
69. Tự do là gì?
Chúng ta nói về tự do theo những cách khác nhau, và thực tế có những kiểu tự do khác nhau. Ở một cấp độ, chúng ta có thể nói tự do như là không bị ràng buộc về thể chất hoặc không bị đe doạ ràng buộc về thể chất (bị xiềng xích, đánh đập, khủng bố, v.v.). Loại tự do thứ hai là tự do nội tâm và tâm lý khiến chúng ta có thể làm những gì ta nhận định là tốt mà không bị trói buộc bởi những đam mê, nghiện ngập hỗn loạn, v.v. Hình thức tự do cao nhất đạt được khi con người nhận ra lời kêu gọi tự trao tặng trong tình yêu. Hình thức tự do và phẩm giá lớn nhất này đã được Đức Giêsu Kitô thực hiện và mạc khải trên thập giá.
(TLHT 143; Đức Gioan Phaolô II, Diễn từ Kinh truyền tin tại Berlin ngày 23 tháng 6 năm 1996)
70. Có mối liên hệ nào giữa tự do và luật luân lý không?
Có. Tự do của con người thuộc về chúng ta với tư cách những thụ tạo; đó là tự do được ban tặng như một món quà, giống như một hạt giống cần được gieo trồng. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta luật luân lý như một bản hướng dẫn để qua đó bản tính con người và xã hội phát triển. Khi ta cho rằng mình là người sáng tạo và người chủ tuyệt đối quyết định về thiện ác, thì ta bóp chết tự do, huỷ diệt con người và xã hội. (TLHT 138)
71. Đức Giêsu có ý nghĩa gì đối với tự do của chúng ta?
Đức Giêsu làm cho ta được tự do thật sự. Hoặc cố ý hoặc vì yếu đuối, chúng ta rất thường xuyên phạm tội. Tự do của con người (được hiểu ở đây là quyền tự quyết) do đó cần được giải phóng. Điều này được thực hiện bởi Đức Kitô, người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, kêu gọi chúng ta đến với sự sống và ban cho ta ân sủng để giải thoát ta khỏi tình yêu vị kỷ hỗn loạn. (TLHT 143)
72. Hành vi tốt phát huy tự do của chúng ta. Làm thế nào để ta biết những gì là tốt cho con người và xã hội?
Ta biết điều gì tốt, điều gì xấu bởi vì ta có thể nhận ra luật luân lý tự nhiên thông qua ánh sáng trí tuệ của ta và, thêm vào đó, qua Mạc khải của Thiên Chúa. Luật này là phổ quát vì nó mở rộng cho tất cả mọi người. Trong các giới luật chính của nó, luật Thiên Chúa và tự nhiên được trình bày trong Mười Điều Răn. Luật này chỉ ra các chuẩn mực chính và thiết yếu điều chỉnh đời sống luân lý trong xã hội, và là những chuẩn mực không thể thay đổi. “Tiêu điểm của đời sống luân lý chính là hành vi hướng lên Thiên Chúa và phục tùng Thiên Chúa, là nguồn phát sinh và là Đấng phân xử tất cả những gì là tốt, đồng thời là hành vi nhìn nhận mọi người đều bình đẳng với mình. Luật tự nhiên phản ánh phẩm giá con người và đặt nền tảng cho các bổn phận căn bản của con người” (TLHT 140). (TLHT 140)
73. Chẳng phải có nhiều nền văn hoá trên thế giới với các xác tín luân lý khác nhau sao?
Hầu hết các nền văn hoá tuân thủ các nguyên tắc căn bản của luật tự nhiên. Tuy nhiên, không phải mọi người ở trong hay ngoài các nền văn hoá đó cũng đều công nhận những nguyên tắc của luật tự nhiên. Do đó, Thiên Chúa cũng đã mạc khải luật tự nhiên này. Luật tự nhiên, cũng là luật của Thiên Chúa, không thể bị bãi bỏ bởi tội lỗi của con người hoặc bởi ý kiến đa số trong một nền dân chủ. Luật luân lý tự nhiên đặt nền tảng luân lý không thể thiếu được cho bất kỳ cộng đồng nhân loại nào và cho luật dân sự. (TLHT 141-142)
74. Tại sao tất cả mọi người đều bình đẳng?
Tất cả mọi người đều bình đẳng theo nghĩa là tất cả đều có cùng một phẩm giá vì là những thụ tạo được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống với Thiên Chúa. Sự kiện Con Thiên Chúa mang bản tính con người củng cố sự bình đẳng này về mặt phẩm giá: “Không còn chuyện phân biệt DoThái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28). Phẩm giá của mỗi người trước mặt Thiên Chúa là “nền tảng cuối cùng đưa tới sự bình đẳng và tình huynh đệ căn bản giữa mọi người, bất kể chủng tộc, quốc gia, giới tính, nguồn gốc, văn hoá hay giai cấp” (TLHT 144). (TLHT 144)
75. Bình đẳng như là một nguyên tắc cho việc tổ chức trật tự xã hội nghĩa là sao?
Tất cả mọi người đều bình đẳng về phẩm giá và các quyền căn bản của họ, bất kể công trạng, nhu cầu và chức năng của họ là gì. Là nguyên tắc xã hội và nhất là nguyên tắc pháp lý, bình đẳng không có nghĩa là đồng nhất. Để được bình đẳng và công bằng, pháp luật phải đối xử với các thực tại khác nhau theo sự khác biệt của chúng và đối xử với các thực tại giống theo sự tương đồng của chúng. Một luật đối xử với các vấn đề khác nhau theo một cách giống hệt nhau hoặc đối xử các vấn đề giống hệt nhau theo một cách khác nhau là một luật phân biệt đối xử và bất công. Do đó, những gì bình đẳng phải được đối xử bình đẳng, và những gì khác nhau phải được đối xử khác nhau. Chẳng hạn, vì phẩm giá con người, sự sống của mỗi người phải được bảo vệ. Sẽ là việc phân biệt đối xử cách bất công khi đặt ra các khác biệt trong sự bảo vệ này, chẳng hạn vì tuổi tác của một người. Tuy nhiên, có một số lĩnh vực có ý nghĩa để tạo ra sự khác biệt liên quan đến phẩm chất như tuổi tác. Ví dụ, liên quan đến bỏ phiếu, nghĩa vụ quân sự và các nghĩa vụ công dân khác, sự phân biệt theo độ tuổi có ý nghĩa và không bất công.
76. Nhưng chẳng phải mọi bất bình đẳng đều là bất công?
Không. Có nhiều sự bất bình đẳng tự nhiên mà không bất công: tất cả chúng ta đều được sinh ra với những tài năng khác nhau, ở những thời điểm và địa điểm khác nhau, v.v. Ngoài ra, mỗi người được sinh ra trong một tình huống chính trị, kinh tế và xã hội cụ thể, và do đó sự bất bình đẳng là không thể tránh được ở một mức độ nhất định. Việc không nhận ra sự bất bình đẳng như vậy sẽ ngăn cản việc cần phải khích lệ một số tài năng và phẩm chất có thể được sử dụng phục vụ công chúng. Mức độ khác nhau về công trạng và nỗ lực chắc chắn tạo ra một số bất bình đẳng nhất định.
Bất bình đẳng trở thành bất công khi nó xảy ra như là kết quả của các hành vi phi pháp hoặc vô đạo đức, các phương pháp mờ ám, thiên vị hoặc do phe nhóm thân hữu. Công việc của các cơ quan công quyền và xã hội nói chung là thăng tiến các điều kiện để tạo cơ hội bình đẳng, ví dụ bằng cách thúc đẩy cạnh tranh xã hội một cách công bằng và được hưởng chăm sóc sức khoẻ và nền giáo dục. (EG 202)
77. Thế còn người nam và người nữ thì sao – họ có bình đẳng không?
Có. Người nam và người nữ bình đẳng về phẩm giá. Đồng thời, vẫn tồn tại một “sự khác biệt về bình đẳng”nào đó giữa người nam và người nữ. Có một cái gì đó đặc biệt và độc đáo duy nhất cho nữ tính khác với cái đặc biệt và độc đáo nam tính. Hơn nữa, điểm khác biệt về sự bình đẳng này làm phong phú và không thể thiếu đối với sự hài hoà của đời sống trong xã hội, (TLHT 146). Bảo đảm sự hiện diện chính đáng của phụ nữ trong Giáo hội, tại nơi làm việc và trong toàn xã hội không chỉ là vấn đề công nhận và đề cao phẩm giá bình đẳng của họ, mà còn nhận ra và đề cao những gì đặc biệt và độc đáo dành cho họ. (TLHT 146-148)
Chủ đề Đặc biệt: Đạo đức Sinh học
PAU AGULLES
78. Việc bảo vệ sự sống có quan trọng đối với sự phát triển của con người không?
Có. Sự sống, theo đúng bản chất của nó, là nền tảng của tất cả các giá trị, quyền lợi và bổn phận khác của con người. Nếu sự sống không được tôn trọng, nếu nó bị xúc phạm hoặc bị loại bỏ, thì sự phát triển của con người không thể thực hiện được. Sự sống luôn là một điều tốt đẹp; do đó, bất kỳ cuộc tấn công trực tiếp nào chống lại nó luôn luôn là một tội ác. Điều này được diễn tả rõ ràng trong điều răn: “Ngươi không được giết người”. (TLHT 155-156; EV 40-41, 52-57)
79. Tại sao ta có bổn phận giữ gìn sự sống và sức khoẻ của con người?
Bổn phận này xuất phát từ phẩm giá và sự thánh thiêng của sự sống con người và từ nguyên tắc không được vi phạm đến sự sống ấy. Sức khoẻ là một điều tốt đẹp xuất phát từ sự sống và đòi ta phải hướng đến. Sức khoẻ thông thường là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của ta, bao gồm cả sự phát triển tâm linh. Chăm sóc sức khoẻ của bản thân và của người khác là một bổn phận trong trách nhiệm đối với các cuộc đời đã được giao phó cho ta: sự sống của chính chúng ta và của những người khác. Đó là một bổn phận đối với bản thân, đối với Thiên Chúa và những người khác. Tuy nhiên, chăm sóc sức khoẻ không còn hợp lý khi chăm sóc sức khoẻ chính vì để khoẻ, chứ không vì mục đích nào khác hoặc dẫn đến việc tôn thờ thân thể, hoặc được hướng đến bất kỳ mục đích xấu nào. Trách nhiệm luân lý đối với sức khoẻ và thân thể bao gồm vấn đề dinh dưỡng, y phục phù hợp, nơi cư ngụ xứng hợp, vệ sinh và nghỉ ngơi, chăm sóc y tế đúng cách và cân xứng. Các cơ quan công quyền và xã hội nói chung cũng đều cóphần trách nhiệm về các bổn phận này. (GLHTCG 2288-2289; EV 71)
80. Bàn về đạo đức sinh học như một vấn đề công bằng có ý nghĩa không?
Có. Trong các tương quan của con người, đức tính công bằng có một vai trò căn bản. Công bằng hệ tại ở việc trả lại cho mỗi người và xã hội những gì đúng là của họ. Đạo đức sinh học liên quan đến một loại đặc biệt trong các tương quan này, liên quan đến sự sống và sức khoẻ của con người. Như vậy, đạo đức sinh học không chỉ đơn thuần là việc áp dụng một danh mục các chuẩn mực vào các trường hợp cụ thể; nhưng trước hết và quan trọng nhất chính là hành động một cách công bằng đối với sự sống con người. (EV 13,57,66, 101)
81. Và phá thai, tại sao lại là vấn đề “xã hội”chứ không phải chỉ là vấn đề đạo đức cá nhân?
Tác động của pháp luật và sự khoan dung nói chung về phá thai vượt ra ngoài từng trường hợp phá thai riêng lẻ. Pháp luật và các định chế ủng hộ phá thai dẫn đến thái độ kém tôn trọng sự sống, và do đó cũng kém tôn trọng thiên chức làm mẹ, và cũng đem lại một thái độ cho phép tự do tình dục. “Trong chiều hướng đó việc phá thai vượt quá trách nhiệm của những cá nhân và vượt quá sự thiệt hại gây ra cho họ, và nó mang một chiều kích xã hội rất lớn. Đó là một vết thương rất trầm trọng gây ra cho xã hội và cho nền văn hoá của xã hội” (EV 59). Phụ nữ thường cảm thấy áp lực phải phá thai từ các đòi hỏi về nghề nghiệp, từ bạn bè và thậm chí từ chính gia đình của họ. Xúc tiến việc trợ cấp xã hội cho các gia đình và bà mẹ gặp khó khăn là một biện pháp quan trọng để chống lại những áp lực này và góp phần xây dựng một nền văn hoá sự sống. (EV 26, 59; CV 28; LS 120)
82. Giáo hội nói gì về tự tử?
Giáo hội cho rằng, giống như giết người, tự tử luôn luôn là điều không thể chấp nhận được về mặt đạo đức. Đúng là có thể có một số điều kiện tâm lý, văn hoá và xã hội nhất định có thể giảm thiểu hoặc thậm chí làm vô hiệu tính cách đáng kết tội của người thực hiện hành vi. Tuy nhiên, sự thừa nhận thực tế này không nên xem là sự củng cố tích cực cho tự tử, mà đúng ra xuất phát từ sự hiểu biết sâu sắc về mức độ yêu thương của Thiên Chúa dưới ánh sáng của luật pháp, áp dụng đối với mọi tội. Tuy nhiên, ngay cả trong những trường hợp tuyệt vọng nhất, tự tử vẫn là sự phá huỷ hình ảnh sống của Thiên Chúa. Đó là sự chối bỏ tình yêu đối với bản thân và các bổn phận công bằng và yêu thương đối với người lân cận và xã hội, cũng như sự khước từ Thiên Chúa, Đấng có chủ quyền tuyệt đối trên sự sống và cái chết. Tự tử cần được phân biệt với những trường hợp khiến người ta phải liều mất mạng sống mình vì muốn đạt được một lợi ích quan trọng hoặc cần thiết (ví dụ: công việc của cảnh sát, lính cứu hoả và bác sĩ). Những trường hợp này không vi phạm luật luân lý. (GLHTCG 2281-2283; EV 66; IB I)
83. Tại sao Giáo hội phản đối an tử?
An tử là một sự vi phạm nghiêm trọng luật của Thiên Chúa, bởi vì đó là hành vi cố ý giết người, bất kể lý do hoặc phương tiện được sử dụng. Sự sống và phẩm giá con người là những điều thiện nội tại, bất kể “phẩm chất” của sự sống – người bệnh có cùng phẩm giá như người khoẻ mạnh. Do đó, việc chấm dứt sự sống luôn là một sự dữ luân lý. Quyền tự quyết chính đáng không mở rộng đối với chính sự sống mà đúng hơn là mở rộng cho cách thức sống của mỗi người. Ngoài ra, như đã lưu ý trước đây, việc chấp nhận an tử trong các trường hợp được lựa chọn phụ thuộc vào “sự trượt dốc xã hội”, điều này dẫn đến các lạm dụng và gây ra một vết thương nghiêm trọng cho xã hội, đặc biệt là thái độ của xã hội đối với người bệnh và người đang hấp hối. (EV 65; IB)
84. Phôi người có xứng đáng được bảo vệ hợp pháp như người trưởng thành không?
Như sinh học đã chứng minh, phôi thai người là một con người hoàn chỉnh từ thời điểm thụ thai. Trong suốt quá trình phát triển của người đó, tất cả những thay đổi diễn ra thuộc về định lượng (ví dụ: kích thước, hình dạng, số lượng tế bào, v.v.) không bao giờ thuộc về định tính (tức là, biến thành một hữu thể mới hoặc hữu thể khác). Từ sự kết hợp của hai loại giao tử, phôi thai là một hữu thể thuộc loài người được tạo dựng thành một sinh vật mới (khác với mẹ hoặc cha, nhưng giống như cha mẹ), có sự phát triển liên tục và tương đối tự chủ. Do đó, nếu như việc cố ý loại bỏ sự sống của con người đã được sinh ra là bất hợp pháp, thì việc loại bỏ một sự sống của con người chưa sinh ra cũng là sai trái như thế. Do đó, hiến pháp và pháp luật phải bảo vệ sự sống trong những giai đoạn phát triển sớm nhất, đặc biệt là trong bụng mẹ, thời điểm mà sự sống của con người là vô tội, dễ bị tổn thương và phụ thuộc nhất. (EV 58; DonVit I; DP 1-5; BGLĐT, Tuyên ngôn về Phá thai 1974, III, V)
85. Những vấn đề chính trị chính yếu liên quan đến phá thai là gì?
Vấn đề chính yếu về đạo đức-chính trị do việc hợp pháp hoá phá thai đặt ra là phá thai dẫn đến sự bất công và phân biệt đối xử nghiêm trọng. Tình trạng pháp lý này như muốn xác định một cách độc đoán rằng một nhóm người nhất định nào đó (người chưa sinh) phải bị loại khỏi nhóm các công dân và các người được bảo vệ. Trong khi xã hội hiện hữu là để phục vụ con người. Do đó, việc coi thường quyền sống của một số người là trái ngược hoàn toàn với khả năng thực hiện công ích của xã hội. (EV 72)
Bài này đã được xem 1034 lần!