86. Có trường hợp nào để một chính trị gia Công giáo có thể bỏ phiếu ủng hộ luật cho phép phá thai không?
Nếu không thể bãi bỏ hoàn toàn một luật hiện hành cho phép phá thai, một chính trị gia, vốn đã tuyên bố rõ ràng và công khai lập trường chống phá thai của mình, có thể hỗ trợ một cách hợp lý các đề xuất nhằm tìm cách hạn chế thiệt hại của luật đó và giảm tác động của luật này trong lĩnh vực văn hoá và luân lý chung. Bằng cách này, người ta không hợp tác trong sự dữ phá thai mà đang thực hiện một nỗ lực chính đáng để cải thiện các khía cạnh xấu của một luật (bằng mọi cách có thể hiện nay). Các chính trị gia phải hành động thế nào để không gây ra tai tiếng hoặc nhầm lẫn. (EV 73)
87. Giáo huấn căn bản của Giáo hội về sinh sản nhân tạo là gì?
Giáo hội chủ trương các nguyên tắc luân lý căn bản sau đây liên quan đến vấn đề sinh sản nhân tạo: (1) trước hết và trên hết, bất kỳ sự can thiệp y tế nào cũng phải coi phôi thai là một người ngay từ khi thụ thai; (2) sự sinh sản của con người phải diễn ra trong hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, trở thành cha mẹ chỉ khi cả hai thực hiện hành vi vợ chồng đối với nhau –hành vi yêu thương này là hành vi duy nhất xứng đáng đem một sự sống mới vào thế giới; (3) bất kỳ sự can thiệp y tế nào cũng phải tôn trọng phẩm giá con người khi tìm cách hỗ trợ hành vi vợ chồng đạt đến mục đích tự nhiên hoặc cho phép đạt đến mục đích tự nhiên sau khi được thực hiện bình thường; và (4) sự nghiêm trọng về mặt luân lý của những can thiệp y tế, mà không tôn trọng các nguyên tắc trên đây, được đánh giá dựa trên mức độ chúng thay thế cho hành vi vợ chồng thay vì hỗ trợ nó. (DonVit; DP 12-13)
88. Vậy các công nghệ sinh sản loại nào không phù hợp với đạo đức Kitô giáo?
Ngoài các vấn đề luân lý đã nói ở trên, nhiều công nghệ trong số này còn mang đến những vấn đề nghiêm trọng hơn, bao gồm cả việc thực hành phổ biến làm đông lạnh tinh trùng và lưu trữ phôi (bảo quản lạnh), những phôi người sẽ bị bỏ mặc cho chết hoặc sử dụng để nghiên cứu; việc loại bớt phôi đã cấy ghép (bằng phương pháp phá thai); lựa chọn phôi theo ưu thế di truyền; và các cuộc tấn công khác chống lại phẩm giá của đứa trẻ như mang thai hộ, bán tinh trùng và trứng, v.v. (DonVit II; DP 14-22)
89. Giáo hội nói gì về nghiên cứu tế bào gốc?
Thông qua công nghệ sinh học, con người thực hiện sự thống trị của mình trên thế giới tạo thành một cách xuất sắc, biến đổi và vận dụng nhiều nguồn lực của mình để phục vụ phẩm giá và thịnh vượng của con người và toàn thể nhân loại. Do đó việc nghiên cứu tế bào gốc xứng đáng được tôn trọng và khích lệ. Lĩnh vực y sinh mới này đã mở cánh cửa ra cho những kết quả đầy hứa hẹn.
Các vấn đề luân lý phát sinh khi sự sống của con người không được tôn trọng. Điều này xảy ra, cách riêng, trong nghiên cứu tế bào gốc phôi, vì phôi thai (thường là kết quả của phương pháp sinh sản nhân tạo) bị phá huỷ để có được một số tế bào gốc của phôi thai. Việc sử dụng các tế bào này trong các cơ sở lâm sàng hoặc trong nghiên cứu bởi các bên thứ ba dẫn đến các vấn đề luân lý nghiêm trọng, do các bên hợp tác với nhau trong điều ác này và cùng tham gia vào “các cơ cấu tội lỗi”.
(DP 31-33; Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống, Tuyên bố về Sản xuất và Sử dụng Khoa học và Trị liệu Tế bào Gốc Phôi Con người,2000)
90. Giáo hội nói gì về điều trị y tế? Có cần thiết phải kéo dài sự sống bằng mọi giá? Còn những bệnh nhân trong tình trạng kéo dài không còn có thể tự ăn theo cách tự nhiên thì sao?
Mỗi người có nghĩa vụ luân lý chung là chăm sóc sức khoẻ của chính mình. Các nguyên tắc sau đây giúp làm rõ việc áp dụng cụ thể nguyên tắc chung này; (1) không thực hiện phương thức nào để trực tiếp hoặc cố ý đẩy nhanh cái chết, có nghĩa là phải tránh tất cả các hình thức an tử và tự tử; (2) phải tránh các phương tiện không cân xứng hoặc vô ích gây ra đau khổ không cần thiết và xúc phạm phẩm giá con người; (3) một bệnh nhân có quyền chính đáng lựa chọn việc theo hay không theo một điều trị y tế cụ thể. Việc từ chối một số phương pháp điều trị nhất định không nhất thiết đồng nghĩa với an tử; đúng hơn, nó thường là một biểu hiện của việc chấp nhận tình trạng của con người khi đối mặt với cái chết. Do đó, điều quan trọng là phải phân biệt giữa việc trực tiếp tìm kiếm cái chết và việc chấp nhận tự nhiên cái chết đang đến; và (4) một bệnh nhân không được từ chối hoặc bị khước từ những phương tiện thông thường và tương xứng được coi là tối thiểu, có mục đích duy trì sự sống và mang lại sự thoải mái về thể chất và tâm lý. Những phương tiện sau đây thường được coi là thông thường và tương xứng: dinh dưỡng và cung cấp nước, hỗ trợ hô hấp, thuốc giảm đau, thay đổi tư thế và cách chăm sóc giảm đau tương tự.
(USCCB, Hỏi &Đáp liên quan đến các câu Trả lời của Toà Thánh về Dinh dưỡng và Hydrat hoá cho Bệnh nhân ở “Trạng thái Thực vật” 2007)
91. Những vấn đề đạo đức được đặt ra bởi việc cấy ghép nội tạng và bán nội tạng là gì?
Hiến tặng nội tạng là một hành động đáng khen ngợi và hào phóng mang đến khả năng hồi phục sức khoẻ và tính mạng cho một số bệnh nhân. Tuy nhiên, để được phép về mặt luân lý, phải tuân thủ các nguyên tắc sau: (1) mọi hành động thương mại hoá nội tạng là không thể chấp nhận được về mặt luân lý; nó sử dụng cơ thể như một món hàng và xúc phạm phẩm giá con người; (2) bất kỳ hành động quyên góp nào cũng cần thông báo và có sự đồng ý của người cho; (3) các bộ phận quan trọng chỉ có thể được lấy ra từ xác chết, nghĩa là từ cơ thể của một người được xác nhận chắc chắn là đã chết; và (4) liên quan đến danh sách người chờ được ghép tạng, các tiêu chuẩn phải được tuân thủ nghiêm ngặt về vô trùng và lâm sàng cũng như không bao giờ được phân biệt đối xử (như về giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội, v.v.) hoặc thực dụng (như khả năng lao động, tiện ích xã hội của bệnh nhân, v.v.).
(EV 86; DP 34-35; Đức Gioan Phaolô II, Diễn từ tham dự Đại hội quốc tế lần thứ 18 của Hiệp hội Cấy ghép, 2000)
4. Các Nguyên tắc Giáo huấn Xã hội Công giáo
GREGORIO GUITIÁN
Giáo huấn Xã hội của Giáo hội đề ra những nguyên tắc để suy tư, quy định những tiêu chuẩn để phán đoán, và trình bày những chỉ dẫn để hành động.
GIÁO LÝ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO, 2423
Khi cộng đồng Kitô giáo phát triển và khi các hoàn cảnh xã hội thay đổi, các Kitô hữu được kêu gọi sống theo những thách đố bằng cách lãnh nhận trách nhiệm xã hội và chính trị trong xã hội. Ơn gọi Kitô giáo của họ kêu gọi họ tìm kiếm sự hướng dẫn trong Thánh Kinh và trong Truyền thống sống động của Giáo hội. Ở đó, họ phát hiện ra các nguyên tắc và giá trị chi phối đời sống Kitô hữu trong xã hội. Tuy nhiên, họ cũng hiểu rằng ngoài Mạc khải, lý trí là cần thiết để áp dụng tốt các nguyên tắc này. Do đó, họ cũng đã phát triển các tiêu chuẩn khôn ngoan thực tế và các hướng dẫn hành động.
92. Thế nào là các nguyên tắc trường cửu hoặc căn bản của Giáo huấn Xã hội Công giáo?
Các nguyên tắc căn bản hoặc trường cửu của Giáo huấn Xã hội Công giáo là nguyên tắc phẩm giá con người, đây là nền tảng của tất cả các nguyên tắc khác của Giáo huấn Xã hội Công giáo, nguyên tắc công ích, nguyên tắc bổ trợ và nguyên tắc liên đới. (TLHT 160)
93. Đặc điểm của các nguyên tắc này là gì?
Các nguyên tắc căn bản của Giáo huấn Xã hội Công giáo có bốn đặc điểm: (1) có giá trị trường cửu dù xã hội hoàn cảnh thay đổi; (2) chúng liên hệ tới “những nền tảng cuối cùng, mang tính cơ cấu của cuộc sống xã hội” (TLHT 163), biến những nguyên tắc này thành nền tảng cho toàn bộ Giáo huấn Xã hội vì chúng đề cập đến toàn bộ thực tế xã hội: chính trị, kinh tế, pháp luật, quan hệ giữa các cộng đồng khác nhau và các quan hệ quốc tế; (3) các nguyên tắc tạo thành một thể thống nhất không cho phép hiểu một nguyên tắc tách rời các nguyên tắc khác – giữa các nguyên tắc tồn tại “tính chất hỗ tương, bổ túc và liên hệ với nhau” (TLHT 162) theo cách không thể khẳng định một nguyên tắc mà không khẳng định các nguyên tắc còn lại, cũng không thể phủ nhận một nguyên tắc mà không phủ nhận các nguyên tắc còn lại; và (4) các nguyên tắc trường cửu luôn là điểm tham chiếu cho sự hướng dẫn và các phán đoán luân lý của Giáo huấn Xã hội Công giáo. (TLHT 161-163; BGL, Chiều kích Tôn giáo của nền Giáo dục trong Trường Công giáo 1988, 29-42)
94. Tại sao các nguyên tắc này có giá trị trường cửu?
Các nguyên tắc căn bản của Giáo huấn Xã hội Công giáo có một giá trị trường cửu bởi vì chúng là một biểu hiện của nhân học Kitô giáo, nghĩa là, một biểu hiện của chân lý toàn diện về con người được biết đến bởi lý trí và được chiếu sáng bởi đức tin. Chúng tạo thành “sự phát biểu hàng đầu về sự thật của xã hội qua đó mỗi lương tâm được thách đố để thực hiện” (TLHT 163); chúng là những sự thật mà Giáo hội đã phản ánh qua nhiều thế kỷ, đem đến cho chúng một nền tảng, sự rõ ràng và hình thức chính xác hơn bao giờ hết. (TLHT 160, 163)
95. Ngoài những nguyên tắc căn bản này, những nguyên tắc nào khác hình thành nên thành phần của Giáo huấn Xã hội Công giáo?
Nguyên tắc mục tiêu phổ quát của tài sản và nguyên tắc tham gia bắt nguồn từ các nguyên tắc trường cửu. (TLHT 197)
96. Thế nào là nguyên tắc công ích?
Như một hệ quả của phẩm giá, của sự thống nhất và bình đẳng của tất cả mọi người, mục tiêu hàng đầu của mọi xã hội là theo đuổi công ích, nghĩa là “toàn bộ những điều kiện xã hội cho phép con người, tập thể hay cá nhân, đạt tới sự phát triển của mình một cách đầy đủ hơn và dễ dàng hơn” (TLHT 164, trích dẫn GS 26). Tôn trọng con người, hoà bình, sự hưng thịnh xã hội và sự phát triển toàn diện là tất cả các yếu tố thiết yếu của công ích. “Cũng như các hành động luân lý của một cá nhân được thực hiện trong khi làm điều thiện, các hành động của xã hội cũng đạt đến tầm vóc đầy đủ của chúng khi đem lại công ích. Thật ra, có thể hiểu công ích là chiều kích xã hội và cộng đồng của sự thiện luân lý” (TLHT 164). (TLHT 164-165; GLHTCG 1907-1909; GS 26)
97. Thế nào là các đặc tính của công ích?
Công ích có năm đặc tính: (1) chính xác và trên hết là chung: chỉ khi cùng với mọi thành viên của xã hội ta mới có thể đạt đến, gia tăng, và bảo vệ thiện ích này. Thiện ích cũng là chung bởi vì đó là thiện ích của tất cả, của mỗi người và toàn bộ con người; do đó, không phải đơn thuần chỉ là tổng số các thiện ích nào đó của mỗi thành viên xã hội; (2) không thể phân chia: mỗi thành viên có thể tham gia công ích và công ích này không thể phân chia giữa các thành viên của một xã hội; (3) luôn luôn có mục tiêu hàng đầu là sự thăng tiến tất cả mọi người và toàn thể con người; (4) công ích có một chiều kích siêu việt, chiều kích này vượt quá hiện tại – vì Thiên Chúa là cứu cánh tối hậu của các thụ tạo do Ngài dựng nên, nên chiều kích siêu việt của công ích không thể bị tước đoạt; do đó công ích không chỉ là sự hưng thịnh kinh tế-xã hội, mà còn có chiều kích tâm linh; và (5) công ích là một thiện ích gian nan – nó khó mà đạt đến – vì “đòi phải có năng lực và cố gắng liên tục trong việc mưu cầu thiện ích cho người khác, như thể đó là thiện ích của bản thân mình” (TLHT 167). (TLHT 164-165, 167, 170)
98. Ai có trách nhiệm đem lại công ích?
Do các đặc tính của nó, “công ích có liên quan tới mọi thành phần trong xã hội, không ai được miễn cộng tác vào việc thực hiện và phát huy công ích, tuỳ theo khả năng của mỗi người” (TLHT 167). Ngoài mỗi cá nhân, trách nhiệm cũng thuộc về Nhà nước, “vì công ích là lý do khiến quyền hành chính trị tồn tại” (TLHT 168). (TLHT 167-168; GLHTCG 1908)
99. Các bổn phận của cộng đồng chính trị liên quan đến công ích là gì?
Các nhiệm vụ của cộng đồng chính trị là: (1) bảo đảm tính mạch lạc, thống nhất và tổ chức của xã hội; (2) hoạt động nhằm “cống hiến cho con người những thiện ích cần thiết cho đời sống vật chất, văn hoá, luân lý và tâm linh” (TLXH 168) để họ có thể sống một cuộc sống đích thực của con người; (3) làm hài hoà và điều hoà các của cải và lợi ích cụ thể của các nhóm và các cá nhân, “không chỉ theo đường hướng của đa số mà còn theo thiện ích thật sự của mọi thành phần trong cộng đồng, kể cả các nhóm thiểu số” (TLHT 169). Đây là một nhiệm vụ đặc biệt tế nhị và liên quan mật thiết đến các cơ quan công quyền. (TLHT 168-169)
100. Thế nào là nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải?
Nguyên tắc này dựa trên sự kiện Thiên Chúa tạo ra mọi thứ hiện hữu và trao ban trái đất cho người nam và người nữ để họ có thể thống trị trái đất bằng công việc của họ và tận hưởng thành quả của công việc (x. St 1,28-29). Nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải là nền tảng của trật tự đạo đức xã hội và có thể được diễn giải như sau: “Thiên Chúa đã tiền định cho trái đất và tất cả những gì trái đất chứa đựng đều là cho mọi người và cho mọi dân tộc, ngõ hầu mọi thụ tạo đều được chia sẻ một cách tương xứng cho hết mọi người dựa vào công lý, được điều tiết bởi bác ái” (TLHT 171, trích dẫn GS 69). (TLHT 171; GS 69)
101. Những hệ quả chính của nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải là gì?
Có hai hệ quả chính: quyền phổ quát đối với việc sử dụng của cải và chức năng xã hội của tài sản.
102. Quyền phổ quát đối với việc sử dụng của cải là gì?
Con người có quyền đối với “tài sản vật chất, là thứ đáp ứng các nhu cầu căn bản của con người và cũng là điều kiện căn bản cho con người tồn tại” (TLHT 171). Nói cách khác, đó là quyền “đạt được mức an sinh cần thiết để có thể phát triển trọn vẹn”(TLHT 172). Đó là một quyền tự nhiên, được ghi trong bản chất con người, vốn có, và ưu tiên đối với bất kỳ sự can thiệp nào của con người liên quan đến của cải, bất kỳ hệ thống pháp lý nào điều chỉnh các của cải này và bất kỳ hệ thống hoặc phương pháp nào về mặt kinh tế hay xã hội. (TLHT 171-173)
103. Chức năng xã hội của tài sản là gì?
Nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải cũng có một hệ quả là chức năng xã hội của bất kỳ hình thức sở hữu tư nhân nào. Chức năng xã hội của tài sản có nghĩa là mỗi người “nên nhìn các sự vật bên ngoài mà mình đang sở hữu hợp pháp không chỉ như của mình mà còn như của chung, theo nghĩa chúng phải làm lợi không chỉ cho mình mà còn cho những người khác” (TLHT 178, trích dẫn GS 69). Theo gương của Đức Kitô, chức năng xã hội của tài sản dẫn ta đến chỗ thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với người nghèo, người sống bên lề xã hội và những người mà các điều kiện sống ngăn cản sự phát triển và trưởng thành trọn vẹn của họ. Điều này gọi là ưu tiên chọn lựa người nghèo. (TLHT 178, 182; GLHTCG 2444; MM 19; GS 69)
104. Thế nào là “ưu tiên chọn lựa người nghèo”?
Ưu tiên chọn lựa người nghèo là tình yêu của Giáo hội dành cho người nghèo, “được cảm hứng từ Tin Mừng của các Mối Phúc thật, từ đời sống khó nghèo của Đức Giêsu và từ sự quan tâm của Người đối với người nghèo” (TLHT 184). Tình yêu này quan tâm đến cái nghèo về vật chất và nhiều hình thức khác của nghèo đói về mặt văn hoá và tinh thần trong xã hội ngày nay. Mối quan tâm đặc biệt này đối với người nghèo phải được chuyển thành trách nhiệm xã hội cụ thể; nó phải đi vào lối sống và các quyết định của ta, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến việc sử dụng của cải vật chất mà ta sở hữu. (TLHT 182-184)
Bài này đã được xem 1038 lần!