CẨM NANG GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

105. Có phải quyền phổ quát đối với việc sử dụng của cải khiến cho quyền tư hữu không còn chính đáng?

Không. Nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải không chống lại quyền tư hữu. Tư hữu và các hình thức sở hữu tư nhân khác đối với của cải là hoàn toàn cần thiết cho sự độc lập của cá nhân và gia đình cũng như cần thiết để đạt được một chính sách kinh tế xã hội và dân chủ đích thực. Tuy nhiên, “truyền thống Kitô giáo chưa bao giờ công nhận quyền tư hữu là quyền tuyệt đối và bất khả xâm phạm” (TLHT 177), đúng hơn, quyền tư hữu là một công cụ phục vụ cho mục tiêu phổ quát của của cải, chịu sự chi phối của mục tiêu này và có một chức năng xã hội nội tại. (TLHT 176-177; LE 14; PP 22-23)

106. Vậy làm thế nào quyền tư hữu có thể hoà hợp với mục tiêu phổ quát của của cải?

Bằng hai cách: thứ nhất, Giáo huấn Xã hội Công giáo đề xuất mục tiêu “mọi người đều có thể trở thành chủ sở hữu, ít là trong một chừng mực nào đó” (TLHT 176); mọi người, bằng lao động của mình, sẽ có thể thủ đắc quyền tư hữu, qua đó thực thi quyền phổ quát đối với việc sử dụng của cải. Để bảo đảm việc thực thi chính đáng quyền phổ quát đối với việc sử dụng của cải, cần có một pháp lệnh – ở cấp quốc gia và quốc tế – phân định việc thực thi quyền này và điều chỉnh các quyền đối với tài sản. Việc phân phối đất đai công bằng đáng được quan tâm đặc biệt, nhất là ở các nước đang phát triển và những nước gần đây đã thay đổi từ các hệ thống đặt cơ sở trên tập thể hoá hoặc thực dân hoá. Thứ hai, quyền tư hữu và mục tiêu phổ quát của của cải hoà hợp với nhau thông qua sự đáp ứng luân lý của mỗi người và các dân tộc vì “mỗi cá nhân đều có thể cho và nhận” (TLHT 175, trích dẫn LC 90). Chức năng xã hội của tài sản đòi hỏi một nghĩa vụ về phía chủ sở hữu là không để các tài sản của mình nhàn rỗi và đưa chúng vào hoạt động sản xuất, giao chúng cho những người khác có nguyện vọng và khả năng để sử dụng tốt các tài sản ấy. (TLHT 175-180)

107. Có phải chức năng xã hội của quyền tư hữu cũng áp dụng vào quyền sở hữu trí tuệ?

Phải. Giáo huấn Xã hội Công giáo thừa nhận rằng ngày nay hơn bao giờ hết, việc áp dụng thực tiễn các kiến ​​thức và công nghệ đang trở nên ngày càng có tính quyết định hơn vì sự giàu có của các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào quyền sở hữu trí tuệ. Do đó, để đáp ứng nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải, “phải đưa các kiến thức mới về công nghệ và khoa học phục vụ các nhu cầu hàng đầu của con người” (TLHT 179). (TLHT 179)

108. Nguyên tắc bổ trợ là gì?

Nguyên tắc bổ trợ được lập nên dựa trên phẩm giá con người và bảo vệ quyền tự do bất khả chuyển nhượng của con người. Trong hình thái nguyên thuỷ của nó, lần về đến tận Quadragesimo Anno (xem QA 78), nguyên tắc này cho rằng “một đoàn thể cấp trên không được can thiệp vào sinh hoạt nội bộ của một đoàn thể cấp dưới, bằng cách lấy mất những thẩm quyền của họ; đúng hơn, phải nâng đỡ đoàn thể đó khi cần và giúp đoàn thể đó phối hợp hoạt động của mình với hoạt động của những thành phần khác tạo nên xã hội, nhằm phục vụ công ích” (CA 48). Theo nghĩa tích cực, bổ trợ trước hết là một hình thức hỗ trợ cho con người thông qua việc các gia đình và cộng đồng địa phương hoạt động tự chủ. “Sự trợ giúp đó được thực hiện khi các cá nhân hoặc các nhóm người không thể tự mình hoàn thành một điều gì đó, và bao giờ cũng nhắm đến việc giải phóng họ, vì sự trợ giúp này nuôi dưỡng tự do và thúc đẩy việc tham gia thông qua việc lãnh nhận trách nhiệm” (CV 57). Từ “bổ trợ” xuất phát từ tiếng Latin “subsidium” – hỗ trợ – do đó nói về thái độ hỗ trợ, thăng tiến phúc lợi và phát triển. (TLHT 185-186; CA 48; CV 57; QA 78)

109. Có phải mọi hình thức trợ giúp đều là thực hiện bổ trợ?

Không. Chỉ những các hoạt động nào“làm cho tất cả các dân tộc có thể tự mình nắm lấy vận mệnh của mình” (PP 65) và “lãnh nhận nhiệm vụ của mình” (CV43) mới là những biểu hiện đích thực của bổ trợ, bởi vì chỉ có sự hỗ trợ nào nhìn nhận nơi nhân vị là “một chủ thể bao giờ cũng có khả năng cống hiến một cái gì đó cho người khác” (CV 57) mới xứng đáng với phẩm giá của con người. Trái với bổ trợ là “nhà nước phúc lợi”, loại nhà nước “can thiệp trực tiếp vào xã hội và lấy mất trách nhiệm của xã hội…, làm hao tổn năng lực của con người, làm cho bộ máy công cộng ra cồng kềnh do cách lý luận quan liêu hơn là do quan tâm phục vụ khách hàng, cũng như làm cho chi phí gia tăng kinh khủng” (CA 48). (TLHT 187; CA 48; CV 43, 57; PP 65)

110. Theo quan điểm của xã hội, mục đích chính của nguyên tắc bổ trợ là gì?

Nguyên tắc bổ trợ thúc đẩy xã hội dân sự, được hiểu là tổng thể các tương quan hình thành nên kết cấu xã hội và tạo ra “nền tảng một cộng đồng đích thực của các ngôi vị, từ đó có thể nhận ra những hình thức cao hơn của hoạt động xã hội” (TLHT 185). Không thể thúc đẩy phẩm giá của con người mà không quan tâm đến gia đình và các hiệp hội khác nhau nhằm giúp mọi người có thể đạt được sự phát triển xã hội hiệu quả. Nguyên tắc bổ trợ bảo đảm rằng sự thể hiện, các khả năng và sáng kiến của các nhóm này không bị phá huỷ hoặc bị nuốt chửng vào một tổ chức xã hội cấp cao hơn. (TLHT 185; GLHTCG 1882)

111. Các hàm ý thực tiễn của nguyên tắc bổ trợ là gì?

Trước hết, bổ trợ nhằm làm cho “các công dân ngày càng có trách nhiệm tích cực ‘tham gia’ vào thực tế chính trị và xã hội của đất nước mình” (TLHT 187), nghĩa là cho phép tất cả mọi người tham gia công ích“vì mỗi người, mỗi gia đình và mỗi đoàn thể trung gian đều có một điều gì đó độc đáo có thể đóng góp cho cộng đồng” (TLHT 187). Do đó, các hàm ý thực tiễn của nguyên tắc này bao gồm “thăng tiến con người và gia đình; trân trọng ngày càng nhiều hơn các hiệp hội và các tổ chức trung gian… cổ vũ sáng kiến tư nhân… bảo vệ nhân quyền và quyền lợi của các nhóm thiểu số; dẹp bỏ tình trạng trung ương tập quyền về hành chính và bàn giấy” (TLHT 187). Điều này phải luôn luôn được thực hiện trong khuôn khổ công ích, vì công ích nhắm vào việc áp dụng nguyên tắc này. (TLHT 187-190)

112. Nguyên tắc bổ trợ đặt ra những giới hạn cụ thể nào?

Nguyên tắc bổ trợ có mục tiêu tránh “một số hình thức trung ương tập quyền, quan liêu bao cấp, trợ cấp phúc lợi…. cũng như sự hiện diện vô lý và thái quá của Nhà nước trong các guồng máy công cộng… việc không nhìn nhận hay nhìn nhận không đầy đủ sáng kiến cá nhân – kể cả trong các hoạt động kinh tế – và không nhìn nhận chức năng công cộng của sáng kiến ​​tư nhân” (TLHT 187). Các hình thức độc quyền “gây trì trệ hoặc trở ngại đối với sự phát triển” (TLHT 351) là một ví dụ về một cơ cấuvi phạm nguyên tắc bổ trợ. (TLHT 187, 351; CA 48)

113. Những chức năng đặc biệt nào thuộc về Nhà nước theo nguyên tắc bổ trợ?

Ngoài việc thúc đẩy các áp dụng cụ thể về bổ trợ đã đề cập, Nhà nước cần cung cấp một số chức năng nhất định trong các trường hợp đặc biệt, luôn luôn hướng đến công ích. Theo nghĩa này, Nhà nước phải hành động trong các tình huống “mất cân bằng xã hội nghiêm trọng hoặc bất công trong đó chỉ có sự can thiệp của cơ quan công quyền mới có thể tạo ra các điều kiện để có được bình đẳng, công bằng và an bình lớn hơn” (TLHT 188). Nhà nước cũng có trách nhiệm thúc đẩy nền kinh tế khi xã hội dân sự không thể chủ động để có sáng kiến. Tuy nhiên, “sự thay thế mang tính cơ chế này không được tiếp tục khi không tuyệt đối cần thiết” (TLHT 188). (TLHT 188)

114. Nguyên tắc tham gia là gì?

Tham gia liên kết mật thiết với nguyên tắc bổ trợ. Đó là hệ quả đầu tiên của nguyên tắc này. Tham gia hệ tại ở chỗ các công dân có bổn phận luân lý phải đóng góp – với tư cách cá nhân hay trong sự liên kết với những người khác – vào sinh hoạt văn hoá, kinh tế, chính trị và xã hội của cộng đồng mà họ thuộc về. Sự tham gia được thực hiện trong các lĩnh vực riêng biệt và khác nhau của đời sống xã hội và phải đặc biệt khuyến khích giữa những người kém may mắn nhất. (TLHT 189; GS 75)

115. Thế nào là tầm quan trọng của việc tham gia vào sinh hoạt cộng đồng?

Tham gia vào sinh hoạt cộng đồng là một trong những khát vọng lớn nhất của công dân, một trong những trụ cột của nền dân chủ và là một trong những bảo đảm tốt nhất cho nền dân chủ luôn được lâu bền. “Mọi nền dân chủ phải có tính tham gia. Nói thế có nghĩa là các chủ thể của cộng đồng dân sự ở bất cứ cấp nào cũng phải được thông tin, được lắng nghe và tham gia vào việc thi hành các chức vụ”(TLHT 190). (TLHT 190)

116. Những trở ngại đối với việc tham gia là gì?

Trở ngại đầu tiên là sự không quan tâm rộng rãi đến bất cứ điều gì liên quan đến sinh hoạt chính trị và xã hội, khiến cho công dân “chỉ giới hạn việc tham gia vào tiến trình bầu cử, và nhiều khi còn bỏ luôn không tham gia vào việc bỏ phiếu” (TLHT 191). Về mặt này, “những cáo buộc về việc tham quyền cố vị, sùng bái quyền lực, ích kỷ và tham nhũng thường nhắm vào những người trong chính phủ… cũng như dư luận quần chúng cho rằng việc tham gia chính trị là một mối nguy hiểm đạo đức tuyệt đối, tất cả những trở ngại này cũng không thể biện minh ít nhất là cho sự nghi ngờ hoặc vắng mặt của người Kitô hữu trong đời sống công cộng” (CFL 42). Những chướng ngại vật khác là những hình thức tự hào khác nhau dẫn đến việc công dân “‘mặc cả’ với các cơ quan để có thể nhận được những điều kiện ưu đãi cho bản thân mình, làm như các cơ quan ấy có mục đích là phục vụ các nhu cầu ích kỷ của họ” (TLHT 191). Cuối cùng, những chế độ chuyên chính hoặc độc tài, nơi mà quyền căn bản tham gia vào đời sống công cộng đã bị chối bỏ tận gốc, hoặc những chế độ mà quyền này chỉ được công nhận suông về mặt hình thức nhưng không được thi hành cụ thể, đều là các mối đe doạ đối với nguyên tắc tham gia. (TLHT 191-192; CFL 42; GS 30-31)

117. Liên đới là gì?

Liên đới là một nguyên tắc đồng thời còn là một đức tính luân lý. Với tính cách một nguyên tắc, liên đới chỉ ra rằng con người, cùng với gia đình nhân loại, “có nghĩa vụ đóng góp cho công ích của xã hội ở mọi cấp độ” (LC 73). Đó là “một trong những nguyên tắc căn bản của quan điểm Kitô giáo về việc tổ chức chính trị và xã hội” (CA 10), và liên kết chặt chẽ với các nguyên tắc về phẩm giá con người, công ích, mục tiêu phổ quát của của cải và bổ trợ. Nguyên tắc liên đới cũng làm phát sinh đức tính luân lý liên đới, đức tính này là “một quyết tâm chắc chắn và bền vững dấn thân cho công ích; nghĩa là cho lợi ích của tất cả và của từng cá nhân, bởi vì tất cả chúng ta đều thật sự có trách nhiệm về mọi người” (SRS 38). (TLHT 195; CV 58; LC 73; CA 10; SRS 38)

118. Một số hàm ý của nguyên tắc liên đới là gì?

“Nguyên tắc liên đới đòi hỏi con người hôm nay phải ngày càng nhận thức rõ hơn rằng họ chính là người mắc nợ xã hội mà trong đó họ là thành viên. Họ là những người mắc nợ về những điều kiện làm cho cuộc sống của họ trở nên đáng sống, và về di sản không thể phân chia được nhưng rất cần thiết do văn hoá, do sự hiểu biết khoa học và kỹ thuật, do của cải vật chất và phi vật chất cũng như do tất cả những gì mà điều kiện làm người mang lại” (TLHT 195). Tương tự như vậy, nguyên tắc liên đới cách riêng kêu gọi nhân loại giải quyết sự bất bình đẳng rõ rệt giữa các nước phát triển và đang phát triển, và cả giữa những nước đã phát triển với nhau. Vì lý do đó, liên đới khiến mọi người cố gắng thay đổi các cơ cấu pháp luật và các hoạt động kinh tế làm nảy sinh những bất bình đẳng này. (TLHT 192-193, 195)

129. Nguyên tắc liên đới bảo vệ những thiện ích nào?

Trong bối cảnh được đánh dấu bằng sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa con người và các dân tộc, nguyên tắc liên đới bảo vệ “sự bình đẳng của tất cả mọi người về phẩm giá và quyền lợi” (TLHT 192). Nguyên tắc này nêu bật mối liên kết giữa con người và các dân tộc và chống lại mọi hình thức của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa phe đảng cục bộ. (TLHT 192)

120. Tương quan giữa nguyên tắc liên đới và nguyên tắc bổ trợ trong bối cảnh viện trợ phát triển là gì?

“Nguyên tắc bổ trợ cần phải liên kết chặt chẽ với nguyên tắc liên đới và ngược lại, vì nguyên tắc trước mà không có nguyên tắc sau thì mở đường cho chủ nghĩa cá nhân mang tính xã hội, và nếu nguyên tắc sau không có nguyên tắc trước thì nhường bước cho sự trợ giúp xã hội mang tính gia trưởng xem thường những ai túng thiếu. Nguyên tắc chung này cũng cần phải được xem xét rộng rãi khi giải quyết những vấn đề liên quan đến viện trợ phát triển quốc tế. Sự trợ giúp đó, bất kỳ ý định của người trao tặng thế nào, đôi khi có thể trói buộc người ta vào tình trạng lệ thuộc, thậm chí còn gây ra những tình cảnh đàn áp và bóc lột ở các địa phương trong nước lãnh nhận” (CV 58). (CV 58)

121. Kitô giáo đóng góp gì cho khái niệm liên đới?

Cách hiểu Kitô giáo về liên đới trước tiên và trên hết là theo gương Đức Giêsu Kitô, Đấng trở nên con người, là mẫu mực hoàn hảo về sự liên đới với nhân loại sâu xa đến mức chết trên thập giá. Người cho thấy tình liên đới Kitô giáo liên kết mật thiết với bác ái. “Trong ánh sáng đức tin, liên đới tìm cách vượt lên chính mình, mang lấy chiều kích đặc thù của Kitô giáo, đó là cho không hoàn toàn, tha thứ và hoà giải. Lúc đó, người lân cận không còn chỉ là một người có những quyền lợi của mình và sự bình đẳng căn bản với mọi người khác, nhưng trở thành hình ảnh sống động của Thiên Chúa… Vì vậy, người đó phải được yêu mến ngay cả khi họ là thù địch, với tình yêu mà Chúa Giêsu đã yêu mến họ; và chính vì ích lợi của người đó mà người ta phải sẵn sàng hy sinh cho họ, kể cả hy sinh đến cùng: hy sinh mạng sống cho anh em mình (x. 1Ga 3,16)” (SRS 40). (TLHT 196; SRS 40)

122. Các giá trị căn bản của đời sống xã hội là gì?

Các giá trị căn bản của đời sống xã hội là các khía cạnh cụ thể của thiện ích luân lý mà các nguyên tắc Giáo huấn Xã hội của Giáo hội hướng tới. Chúng là “những điểm tham chiếu để tổ chức đúng đắn và hướng dẫn đời sống trong xã hội một cách trật tự” (TLHT 197). Những giá trị căn bản này là sự thật, tự do, công bằngtình yêu, và chúng tạo nên “điểm tham chiếu không thể thiếu cho các cơ quan công quyền” (TLHT 197). (TLHT 197)

123. Tương quan giữa các nguyên tắc và các giá trị của Giáo huấn Xã hội Công giáo là gì?

Các nguyên tắc là cơ sở từ đó có thể đạt đến các giá trị như các mục tiêu. Có một tương quan phụ thuộc lẫn nhau giữa các nguyên tắc và các giá trị. Một mặt, các nguyên tắc hướng đến các giá trị này, đó là “phương cách chắc chắn và cần thiết để cá nhân được hoàn thiện và cuộc sống xã hội được nhân bản hơn”(TLHT 197). Mặt khác, việc đạt được những giá trị này đòi hỏi phải thực hành các nguyên tắc căn bản của đời sống xã hội. (TLHT 197)

124. Giá trị sự thật có ý nghĩa gì và thế nào là tầm quan trọng của sự thật trong đời sống xã hội?

Giá trị của sự thật nghĩa là “mọi người có nghĩa vụ đặc biệt là phải luôn hướng tới sự thật, tôn trọng sự thật và làm chứng về sự thật một cách có trách nhiệm” (TLHT 198). Cuộc chung sống với nhau của con người chỉ có thể có trật tự, sinh hoa kết quả và phù hợp với phẩm giá con người khi được đặt nền tảng trên sự thật. (TLHT 198; GLHTCG 2467)

125. Xã hội ngày nay đối mặt với những thách thức nào liên quan đến sự thật?

Ngày nay, hơn bao giờ hết, cần phải tăng cường nỗ lực giáo dục, ngoài việc phải “dấn thân tương xứng của hết mọi người, để cho việc tìm kiếm sự thật mới không bị quy thành việc tổng hợp các ý kiến khác nhau hoặc xoay quanh một hai ý kiến nào trong số đó. Việc tìm kiếm này sẽ được cổ vũ trong mọi lĩnh vực và sẽ vượt lên trên mọi toan tính muốn tương đối hoá đòi hỏi về sự thật hay chống lại sự thật” (TLHT 198). Trong xã hội, các lĩnh vực như kinh tế và truyền thông đại chúng cho thấy rõ nhu cầu và lời kêu gọi phải minh bạch và trung thực hơn trong hoạt động cá nhân và xã hội. (TLHT 198)

Bài này đã được xem 1020 lần!

Pages ( 7 of 18 ): <1 ... 56 7 89 ... 18>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]