126. Giá trị của tự do là gì?
Tự do là dấu hiệu cao đẹp nhất của con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa và do đó cũng là dấu chỉ cho biết phẩm giá tuyệt vời của mỗi người. Tự do “hệ tại ở khả năng làm chủ bản thân bằng cách nhìn ra lợi ích thật sự, trong khuôn khổ công ích phổ quát” (TLHT 200). Nói cách khác, tự do là khả năng đưa một người hướng tới điều tốt và tránh xa mọi thứ làm cản trở sự phát triển cá nhân, gia đình hoặc xã hội. “Tự do đạt tới mức hoàn hảo, khi nó được quy hướng về Thiên Chúa, là vinh phúc của chúng ta” (GLHTCG 1731). (TLHT 199-200; GLHTCG 1730-1748)
127. Giá trị của tự do có những hệ quả gì đối với đời sống xã hội?
Sự tôn trọng tự do trong đời sống xã hội phải hình thành theo phương cách là mỗi thành viên trong xã hội được phép hoàn thành ơn gọi cá nhân của mình. Điều này có nghĩa là mỗi người phải có khả năng “tìm kiếm sự thật và bày tỏ các tư tưởng tôn giáo, văn hoá và chính trị của mình, bày tỏ quan điểm của mình; lựa chọn bậc sống, và nếu có thể, lựa chọn hướng nghề nghiệp cho mình; theo đuổi các sáng kiến có tính kinh tế, xã hội hay chính trị” (TLHT 200). (TLHT 199-200)
128. Nhưng có phải tự do chỉ tập trung vào cá nhân?
Không. Tự do, được hiểu như việc thực thi quyền tự chủ cá nhân một cách tuỳ tiện và không kiểm soát, sẽ chỉ là chủ nghĩa cá nhân ích kỷ. “Tự do chỉ thật sự hiện hữu khi các sợi dây liên kết, được chi phối bởi sự thật và công lý, nối kết mọi người với nhau” (LC 26). Do đó, các hệ quả của tự do đối với đời sống xã hội được xác định ở trên “phải được thực hiện trong ‘một khung pháp lý vững chắc,’ trong những giới hạn do công ích và trật tự xã hội đặt ra, và dù trong bất cứ trường hợp nào cũng phải thực hiện theo phương cách đề cao tinh thần trách nhiệm” (TLHT 200). (TLHT 199-200; CA 42; LC 26)
139. Giá trị của công bằng là gì?
Giá trị của công bằng được nối kết mật thiết với nhân đức trụ là công bằng, đó là “một ý muốn kiên định và vững chắc để trả những gì mình mắc nợ với Thiên Chúa và người lân cận” (GLHTCG 1807). Nó bao hàm quyết tâm nhìn nhận người khác là một nhân vị và cũng là tiêu chí có tính quyết định của luân lý trong lĩnh vực xã hội. (TLHT 201; GLHTCG 1807)
130. Khía cạnh nào của công bằng phải được xem xét cách riêng trong thời đại ngày nay?
Huấn quyền kêu gọi tôn trọng các hình thức công bằng cổ điển: công bằng giao hoán, công bằng phân phối và công bằng pháp lý hoặc công bằng nói chung; nhưng, trong bối cảnh hiện nay, sự nhấn mạnh đặc biệt được dành cho công bằng xã hội. Vì vậy, công bằng xã hội buộc xã hội (không phải chỉ có chính phủ) cung cấp “các điều kiện để các đoàn thể và mỗi cá nhân có được những gì họ có quyền hưởng theo bản tính và ơn gọi của họ” (GLHTCG 1928). Xét đến khía cạnh toàn cầu của các vấn đề xã hội, công bằng xã hội là “một phát triển thật sự trong công bằng nói chung, tức là công bằng nhằm điều hoà các quan hệ xã hội theo tiêu chuẩn tuân thủ luật pháp” (TLHT 201). Công bằng xã hội “liên quan đến các khía cạnh xã hội, chính trị và kinh tế, và đặc biệt liên quan đến khía cạnh cơ cấu của các vấn nạn và các giải pháp cho từng vấn nạn” (TLHT 201). (TLHT 201; GLHTCG 1928-1933)
131. Một số đe doạ đối với sự hiểu biết đích thực về công bằng là gì?
Trong xã hội hiện nay, tầm quan trọng của công bằng và giá trị, phẩm giá và các quyền của con người không ngừng được nêu lên.Tuy nhiên, điều thường xảy ra trong thực tế là – bất chấp tầm quan trọng được công bố này – con người bị đe doạ nghiêm trọng bởi tiêu chuẩn tiện ích và các sở hữu vật chất của ngườiđó thường là yếu tố quyết định về giá trị của một người. Hơn nữa, có một cách nhìn được phổ biến rộng rãi mang tính “hợp đồng” hoặc giản lược về công bằng, những gì là công bằng chỉ được xác định bởi luật pháp, và do đó chỉ là một quy ước thuần tuý của con người. Nhưng “những gì là ‘công bằng’ trước tiên không phải được xác định bằng pháp luật, mà phải xem điều đó có phù hợp với bản chất sâu xa của con người hay không” (TLHT 202). (TLHT 202-203; SRS 40)
132. Bác ái đóng vai trò gì trong việc cơ cấu đời sống xã hội?
Tầm nhìn Kitô giáo và kinh nghiệm của con người chứng tỏ rằng “Tự một mình nó, công bằng thôi chưa đủ. Thật vậy, công bằng có thể phản bội chính mình trừ khi nó biết mở ra cho một sức mạnh sâu xa hơn, đó là tình yêu” (TLHT 203). Công bằng là phương thức ban đầu của bác ái, là “mức độ tối thiểu” (CV 6), nhưng đến lượt công bằng “phải được hoàn tất trong bác ái” (TLHT 206), đó là “tiêu chuẩn cao nhất và phổ quát nhất của toàn bộ nền đạo đức xã hội” (TLHT 204), giả định đã có và vượt quá công bằng. Không có bác ái, “không có pháp chế nào, không có hệ thống luật lệ hay sự thương lượng nào sẽ thuyết phục được con người và các dân tộc sống trong sự hợp nhất, trong tình anh em và trong hoà bình; không có lý luận nào có thể trổi vượt hơn sức thu hút của tình yêu” (TLHT 207). Do đó, đi xa hơn hành động cá nhân, bác ái phải thông truyền và đổi mới các tổ chức kinh tế và xã hội và các hệ thống pháp luật từ bên trong. (TLHT 203-207; CV 6)
5. Sự Sống và Tình yêu: Phúc Âm Gia đình
JENNIFER E. MILLER
Mỗi mối đe doạ gia đình là một đe doạ cho chính xã hội. Tương lai của nhân loại, như Thánh Gioan Phaolô II thường nói, đi ngang qua gia đình…. Vì vậy, hãy bảo vệ gia đình của các bạn! Hãy nhìn thấy nơi gia đình kho báu lớn nhất của đất nước bạn và luôn nuôi dưỡng gia đình bằng lời cầu nguyện và ân sủng của các bí tích.
GIÁO HOÀNG PHANXICÔ, GẶP GỠ CÁC GIA ĐÌNH TẠI MANILA,
16 THÁNG 1 NĂM 2015
Gia đình là tế bào căn bản hoặc viên gạch xây dựng căn bản của xã hội; gia đình là trung tâm của đời sống xã hội. Cả Giáo hội và xã hội đều có nhiệm vụ thúc đẩy và bồi dưỡng phẩm giá của hôn nhân và gia đình. Đến lượt mình, các gia đình được mời gọi tích cực tham gia vào sứ mệnh của Giáo hội và chia sẻ những ân huệ của mình với xã hội.
133. Tại sao Giáo hội nói về gia đình?
Giáo hội loan báo tin mừng về Đức Kitô cho mọi người. Vì gia đình là “tế bào đầu tiên và sống động của xã hội” (TLHT 211), nơi con người học cách sống và cách yêu thương, Giáo hội quan tâm đến gia đình như một phần trong sứ mệnh không ngừng truyền giáo của mình cho con người. (TLHTLời Mở đầu Phần II)
134. Tại sao gia đình được gọi là “tế bào đầu tiên và sống động của xã hội”?
Gia đình là tế bào đầu tiên và sống động của xã hội vì đây là hình thức hiệp thông đầu tiên giữa người với người, giữa nam và nữ. Từ sự hiệp thông này những đứa trẻ được sinh ra, được học hỏi trong khung cảnh gia đình và thông qua các tương tác gia đình hiểu được ý nghĩa thế nào là làm người và cách sống các nhân đức. Điều này cũng có nghĩa là gia đình đang ở trung tâm của đời sống xã hội, với các quyền riêng biệt thuộc về xã hội tự nhiên này. Cả Nhà nước lẫn xã hội dân sự được kêu gọi công nhận sự ưu tiên này của gia đình về mặt văn hoá và chính trị khi đối mặt với lối suy nghĩ cá nhân chủ nghĩa chỉ biết giành lấy phần hơn về mình. (TLHT 209-211, 254)
135. Gia đình được hình thành như thế nào? Mối quan hệ giữa hôn nhân và gia đình là gì?
Gia đình được tạo thành theo định chế hôn nhân, định chế này đã được Đức Giêsu nâng lên hàng bí tích. Thiên Chúa, với tư cách là tác giả của hôn nhân, đã thiết lập ý nghĩa của định chế này. Hôn nhân hiểu theo nghĩa tốt nhất là một giao ước không thể huỷ bỏ, như một món quà giữa chồng và vợ trao chính bản thân mình cho nhau,hình thành nên mối hiệp thông sự sống và tình yêu. Theo nghĩa này, hôn nhân rất khác với một hợp đồng pháp lý, trong đó việc tuân thủ các nghĩa vụ hợp đồng là mối ràng buộc hàng đầu giữa hai hoặc nhiều người. (TLHT 212, 215)
136. Hôn nhân là một bí tích nghĩa là gì?
Với tính cách là một bí tích, hôn nhân là một dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng. Việc tính cách một dấu chỉ, giao ước duy nhất và bất khả phân ly cho đến chết này chỉ ra một điều lớn lao hơn: tình yêu trung thành của Thiên Chúa dành cho dân của Ngài. Tình yêu này, được thấy trong lịch sử cứu độ, đặc biệt là trong sự Nhập thể của Con Thiên Chúa và trong lễ tế hy sinh của Đức Kitô cho Giáo hội của Người, được làm chứng bởi người chồng và người vợ là những người bước vào và sống ân sủng của Bí tích Hôn Phối. Ân sủng của bí tích hỗ trợ cả hai trong việc giúp đỡ nhau nên thánh và hoạt động trong đời sống xã hội hầu làm cho Nước Thiên Chúa tỏ hiện. (TLHT 219-220)
137. Luật dân sự có quan trọng đối với hôn nhân không?
Luật dân sự hoặc luật Nhà nước phải phù hợp với luật tự nhiên, điều này hiểu là chỉ có một người nam và một người nữ, trong một mối tương quan duy nhất và bất khả phân ly, mới có khả năng hình thành một gia đình, và như thế mới có khả năng kết hôn. Vì gia đình là tế bào đầu tiên và sống động của xã hội, toàn xã hội có bổn phận bảo vệ và thăng tiến các gia đình, nhắm đến sự tốt đẹp của cả vợ chồng và con cái, cũng như cho sự ổn định của xã hội, trong đó tìm thấy khả năng cụ thể của gia đình cho sự tồn tại và phát triển xã hội, ít nhất là vì những điều này phát sinh từ việc sinh sản, trong chính gia đình. Vì lý do này, ly dị và các sự kết hợp ngoài hôn nhânvề mặt thực tế, thể hiện một mối đe doạ nghiêm trọng đối với con người và các nền tảng của xã hội. Xã hội, trong khi có thể điều chỉnh các tác động dân sự của hôn nhân, không thể xoá bỏ quyền kết hôn hoặc thay đổi các đặc tính của hôn nhân. (TLHT 214, 216, 224-225, 227, 253)
138. Giáo hội tìm cách gắn kết với những người đã ly dị tái hôn như thế nào?
Giáo hội trong cuộc sống của mình vẫn bận tâm đến những người đã ly dị và tái hôn cũng như khuyến khích họ phát triển trong đức tin của mình. Người được rửa tội, sống trong tình huống này, có thể và phải tham gia vào đời sống của Giáo hội, tiếp tục cầu nguyện, nuôi dạy con cái của họ trong đức tin và tìm kiếm ân sủng của Thiên Chúa. Trong sự trung thành của Giáo hội với Chúa Kitô và với sự thật của Bí tích Hôn Phối, các Bí tích Hoà Giải và Thánh Thể vẫn mở ra cho những ai sẵn lòng sống một đời sống kiên định với sự bất khả phân ly của hôn nhân. (TLHT 226; FC 84)
139. Giáo hội nói gì về các sự kết hợp đồng tính?
Giáo hội tôn trọng phẩm giá của tất cả những người có các khuynh hướng đồng tính luyến ái và khuyến khích họ sống một cuộc đời khiết tịnh. Vì cấu trúc của hôn nhân và gia đình dựa trên sự bổ sung về mặt tâm sinh lý giữa một người nam và một người nữ, và được chỉ định để sinh hoa kết quả là những đứa trẻ sinh ra từ sự giao hợp của họ, nên việc yêu cầu pháp luật công nhận hôn nhân hoặc một sự kết hợp tương tự giữa hai người có xu hướng đồng tính luyến ái là không có căn cứ. Pháp luật “không bao giờ được làm suy yếu sự công nhận hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly là hình thức đúng đắn duy nhất của gia đình” (TLHT 229). (TLHT 228-229)
140. Truyền sinh có phải là lý do duy nhất cho hôn nhân?
Hôn nhân, với tính cách một món quà hiến thân trọn vẹn và vĩnh viễn, nhằm trổ sinh hoa trái trong việc sinh sản và giáo dục con cái. Tuy nhiên, giao ước bất khả phân ly vẫn tồn tại ngay cả khi hai vợ chồng không thể thụ thai. Là một giao ước không thể phá vỡ giữa hai người, hôn nhân cũng hướng đến sự hiệp thông, thúc đẩy sự phát triển tình yêu thương nhau. Hơn nữa, những cặp vợ chồng này cũng có thể mang lại kết quả qua việc nhận con nuôi hoặc qua việc phục vụ tha nhân. (TLHT 218; GratS 11; GS 50)
141. Giáo hội có khuyến khích các bậc cha mẹ sinh càng nhiều con càng tốt không?
Giáo hội nhận ra rằng quyết định liên quan đến việc khi nào và có bao nhiêu đứa trẻ được đưa vào thế giới là một trong những quyền bất khả chuyển nhượng của các cặp vợ chồng; những người làm cha mẹ được kêu gọi “sinh sản có trách nhiệm”. Chính quyền không bao giờ được can thiệp bằng cách buộc cha mẹ phải lựa chọn giữa sự hỗ trợ kinh tế và quyền xác định họ sẽ có bao nhiêu con. Khi cha mẹ quyết định – qua việc cầu nguyện và nhận thức được nghĩa vụ hiện có của họ đối với gia đình và xã hội – tránh sinh thêm một đứa con trong một thời gian hoặc thậm chí trong một thời hạn không xác định, thì việc kiêng cữ giao hợp định kỳ, hoặc kế hoạch hoá gia đình theo phương pháp tự nhiên như đôi khi được gọi thế, sẽ giúp họ thực hiện quyết định đó trong sự kính trọng lẫn nhau và đồng thuận hoàn toàn. Tuy nhiên, khi dùng những phương pháp bất hợp pháp về mặt đạo đức như triệt sản, phá thai và ngừa thai, chúng sẽ làm suy yếu điều thiện ích của nhân vị và tình dục của con người.
142. Vậy cha mẹ có “quyền có con” không?
Mong muốn có con là một điều tốt; tuy nhiên, mong muốn này không thể được thực hiện theo cách coi con cái như đồ vật, đối xử với chúng như sản phẩm mua được. Do đó, không có một “quyền có con” tuyệt đối; đúng hơn, cha mẹ phải tôn trọng quyền của con cái được họ sinh ra. Những quyền này bao gồm quyền được sinh ra trong một gia đình bền vững, yêu thương nhau, được thành lập trên hôn nhân cũng như quyền được thụ thai thông qua tình yêu của hành vi vợ chồng. Vì những lý do này, cha mẹ muốn có con có thể sử dụng các phương pháp hỗ trợ cho hành động vợ chồng, nhưng các công nghệ sinh sản tách rời sự kết hợp này khỏi sự thụ thai là không thể chấp nhận được. Việc nhân bản cho các mục đích sinh sản thường bao gồm trong các công nghệ này và do đó không thể chấp nhận được. (TLHT 235-236, 244)
143. Ai chịu trách nhiệm giáo dục con cái? Vai trò của cha mẹ là gì?
Cha mẹ là các nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của con cái họ. Trong mối quan hệ yêu thương giữa cha mẹ và con cái, họ giáo dục con cái về mặt đạo đức và tôn giáo, với trách nhiệm đặc biệt trong việc nhân bản hoá giáo dục giới tính, bằng cách nhấn mạnh các giá trị luân lý và nhân bản gắn liền với ý nghĩa của tính dục. Đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của họ, không thể được đảm nhận bởi bất kỳ ai khác, kể cả Nhà nước. Tuy nhiên, cha mẹ không phải là người giáo dục duy nhất đối với con cái của họ; cả Giáo hội lẫn Nhà nước đều được kêu gọi hỗ trợ họ trong vai trò này. (TLHT 239-240, 243)
144. Nhà nước và gia đình nên cộng tác với nhau như thế nào?
Vì gia đình là tế bào đầu tiên và sống động của xã hội, nên mối quan hệ giữa gia đình và Nhà nước cần được cơ cấu theo nguyên tắc bổ trợ. Điều này có nghĩa là gia đình được mời gọi không phải là một đối tượng hoàn toàn thụ động trước các hành động chính trị nhưng biết phối hợp với Nhà nước, chính quyền địa phương và các hiệp hội gia đình để tích cực thành lập một xã hội biết bảo vệ và củng cố gia đình. Nhà nước, khi tìm cách hỗ trợ gia đình, không nên tìm cách đảm nhận các chức năng của gia đình mà nên tạo điều kiện và duy trì gia đình theo đúng bản chất của gia đình là một xã hội. Điều này đúng ở tất cả các cấp độ kinh tế, xã hội, pháp lý và văn hoá. (TLHT 214, 247; QA 80)
145. Nhà nước có thể hỗ trợ cha mẹ trong việc giáo dục con cái như thế nào?
Cha mẹ có quyền lựa chọn các tổ chức giáo dục mà họ nghĩ sẽ giúp họ tốt nhất với tư cách là những nhà giáo dục hàng đầu. Nhà nước và các cơ quan công quyền khác có nghĩa vụ công nhận quyền này và đảm bảo các điều kiện cụ thể để thực hiện. Điều này có nghĩa là nên có sẵn quỹ công để phụ huynh có thể hỗ trợ và tìm được các tổ chức giáo dục mà họ tự do lựa chọn. (TLHT 240-241)
146. Mối quan hệ giữa gia đình và nền kinh tế là gì?
Gia đình và thị trường có một mối quan hệ quan trọng. Trong gia đình, sự liên đới giữa các thế hệ và việc giáo dục con cái để chuẩn bị cho công việc tương lai của chúng làm cho nền kinh tế trở thành hiện thực. Mặt khác, quyền của một người được đền bù thoả đáng cho công việc là điều kiện thiết yếu để khởi đầu và duy trì một gia đình. Vì lý do này, Giáo hội nhấn mạnh vào “mức lương công bằng”, có thể hiểu như là “mức lương gia đình”. (TLHT 248-249; LE 19; QA 70-75; VBL 77)
Bài này đã được xem 1040 lần!