147. “Lương gia đình” là gì?
Mức lương gia đình cho phép một gia đình sống tươm tất và tiết kiệm để mua sắm tài sản có thể bảo đảm sự ổn định kinh tế trong tương lai. Các trợ cấp xã hội để mang lại mức lương này có thể có nhiều hình thức: trợ cấp gia đình, đền bù cho công việc gia đình được thực hiện tại nhà và các khoản đóng góp cho các thành viên phụ thuộc vào gia đình. Trong bối cảnh này, cần nhấn mạnh và đánh giá cao hơn các công việc do phụ nữ thực hiện tại nhà. (TLHT 250-251; LE 19)
148. Gia đình có các món quà cụ thể nào tặng cho một xã hội theo cá nhân chủ nghĩa?
Trong một xã hội mà người ta thường tập trung vào tính hiệu quả và chức năng của mỗi cá nhân (“đánh giá theo hiệu quả” như đôi khi gọi như vậy), gia đình phát sinh từ sự lựa chọn cụ thể dành cho tình yêu và tính cách nhưng không của một người nam và một người nữ. Gia đình chấp nhận và vẫn coi trọng những người bị loại ra khỏi một xã hội thực dụng chỉ biết đánh giá con người theo hiệu quả, những người không có khả năng sản xuất, chẳng hạn như người già, người bệnh và trẻ em. Gia đình đánh giá cao hơn cả tầm quan trọng của các giá trị nhân bản, văn hoá và đạo đức trong các mối quan hệ liên vị và làm sống dậy một tình yêu chung thuỷ. (TLHT 221-223, 246; FC 43)
Chủ đề Đặc biệt: Lý thuyết Phái tính
ANTONIO MALO
149. Lý thuyết phái tính là gì?
Lý thuyết phái tính là một trường phái tư tưởng, trong nỗ lực đem lại “sự tự giải phóng khỏi bị ràng buộc bởi sự sáng tạo và Đấng Tạo Hoá” (Bênêđictô XVI, Diễn từ Giáng Sinh trước Giáo triều Rôma 2008, 1), nhằm xác lập một cách tiếp cận “tự do” cho các vấn đề liên quan đến tính dục, hôn nhân và gia đình. Sự phân biệt giữa giới tính và phái tính là một yếu tố trọng tâm của lý thuyết này, xuất hiện trong các nhóm nữ quyền ở Bắc Mỹ vào thập niên 1960 và 1970 và từ đó đã lan rộng ra khắp thế giới.
150. Lý thuyết phái tính định nghĩa các thuật ngữ giới tính và phái tính như thế nào?
Với thuật ngữ “giới tính”, lý thuyết phái tính muốn nói đó là cái được ban cho trong bản tính, nghĩa là thành phần cấu tạo bản chất sinh học hoặc giới tính thân xác. Còn thuật ngữ “phái tính”, được hiểu là một cấu trúc xã hội xác định vai trò của nam và nữ; và, mang tính văn hoá, những thứ này nhất thiết phải thay đổi. Trong các hình thức cấp tiến nhất của nó, lý thuyết phái tính tuyên bố rằng mọi người nên có quyền chọn phái tính của mình, độc lập với cơ thể nam hay nữ của chính mình cũng như độc lập với các quan hệ vợ chồng và gia đình hiện hữu.
151. Những khía cạnh tích cực của lý thuyết phái tính là gì?
Lý thuyết phái tính nhấn mạnh bản chất cá nhân của tính dục con người. Phân tích khoa học về thực tại này cho thấy rằng tính dục của con người, ngoài việc bắt nguồn từ cơ thể, còn phải được cá nhân hoá thông qua sự xác định tâm lý với giới tính của chính mình và thông qua các quan hệ liên cá nhân thích hợp, bắt đầu với mối quan hệ với cha mẹ của mình. Ngoài ra, lý thuyết phái tính chỉ ra một cách đúng đắn rằng một số vai trò xã hội được quy cho nam và nữ trong suốt lịch sử chỉ là quy ước và có tác động tiêu cực đến cách xã hội đánh giá phụ nữ.
152. Lý thuyết phái tính khác với sự hiểu biết của Giáo hội về tính dục của con người như thế nào?
Đức Giáo hoàng Phanxicô nói: “Tôi tự hỏi điều gọi là lý thuyết phái tính là gì nếu không phải là… một biểu hiện của sự dồn nén và cam chịu khi nó tìm cách huỷ bỏ sự khác biệt giới tính vì nó không còn biết cách đương đầu với nó nữa” (Phanxicô, Buổi Tiếp kiến Chung, ngày 15 tháng 4 năm 2015). Trong khi Giáo hội tuyên bố phẩm giá bình đẳng giữa nam và nữ, thì Giáo hội cũng tán thành sự khác biệt của họ. Khi bỏ qua sự khác biệt về giới tính, khi xem nó là điều có thể (và nên) khắc phục, lý thuyết phái tính làm mất tính độc đáo của nữ tính và nam tính. “Nữ tính diễn tả tính ‘con người’ cũng nhiều như nam tính, nhưng theo một cách khác biệt và bổ sung” (Gioan Phaolô II, Thư cho Phụ nữ, 7). Giới tính của một người không đơn thuần chỉ là vấn đề sinh học. “Tính dục đặc trưng cho nam và nữ không chỉ ở mức độ thể chất, mà còn về tâm lý và tinh thần, tạo dấu ấn cho từng biểu hiện của họ” (BGDCG, Hướng dẫn Giáo dục về Tình yêu Con người, 1983, 5).
153. Lý thuyết phái tính mâu thuẫn với Thánh Kinh về những điểm nào?
Hai trình thuật tạo dựng chắc chắn xác nhận tầm quan trọng về sự khác biệt giới tính. Trong trình thuật thứ nhất, chúng ta được thuật rằng “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Trong trình thuật thứ hai, người nam nhận ra rằng anh ta chỉ có một mình và Thiên Chúa làm cho Adam “một trợ tá tương xứng với nó” (St 2,18). Sự giúp đỡ này là để thực hiện cho nhau và không hề ám chỉ người nữ là thấp kém so với người nam. Sự trợ giúp này không chỉ liên hệ đến hành động, nhưng còn thuộc về bản chất của nam và nữ. Nam và nữ không chỉ bổ sung cho nhau ở mức độ thể chất, mà còn ở sự hiện hữu của chính họ. Họ hoàn thành lẫn nhau, nam mang lại cho nữ thứ mà chỉ anh mới có thể cho và nữ mang lại cho nam thứ mà chỉ nữ mới có thể cho. (NN 6; TPN 7)
154. Lý thuyết phái tính mâu thuẫn với luân lý về điểm nào?
Lý thuyết phái tính cũng mâu thuẫn với luân lý tính dục. Trước hết, khi phân biệt triệt để giữa giới tính và phái tính, lý thuyết phái tính phủ nhận các ý nghĩa truyền sinh lẫn kết hợp về tính dục của con người, như có thể thấy trong thái độ của lý thuyết này đối với quan hệ đồng tính, trong đó không có sự hiệp thông thật sự do không có sự khác biệt về giới tính. Thứ hai, dựa trên sự tách biệt giữa giới tính và phái tính, các nhà lý thuyết phái tính cho rằng các mối quan hệ đồng tính có khả năng cấu thành một cuộc hôn nhân. Tuy nhiên, mặc dù có thể có những cảm xúc và cam kết sâu sắc trong các mối quan hệ này, nhưng chúng vẫn không phải là hôn nhân vì thiếu sự khác biệt giới tính, và do đó không thể là nguồn gốc của một gia đình. (TLHT, 229; LF, 52; EG, 66)
155. Lý thuyết phái tính có ảnh hưởng gì đến xã hội?
Lý thuyết phái tính ảnh hưởng đến xã hội ở hai cấp độ. Ở cấp độ chính trị và lập pháp, các nhà lý thuyết phái tính gây áp lực để thay đổi diện mạo của hôn nhân và gia đình. Họ kêu gọi hợp pháp hoá và sự chấp nhận của xã hội đối với các mô hình mới về hôn nhân và gia đình nhân danh sự tiến bộ, khoan dung và quyền bình đẳng, bao gồm quyền nhận con nuôi. Tuy nhiên, điều gọi là “tiến bộ” này sẽ chỉ góp phần vào sự tự huỷ diệt của con người và xã hội (xem Bênêđictô XVI, Diễn từ Giáng Sinh trước giáo triều Rôma, 2008). Ở cấp độ văn hoá, lý thuyết phái tính tìm cách thay đổi các tâm trí đang được hình thành, bắt đầu từ những người dễ bị tiêm nhiễm nhất: trẻ em và thanh thiếu niên. Dưới vỏ bọc nhằm giáo dục chúng về lòng khoan dung, chúng được khuyến khích “khám phá” và “thử nghiệm” với tính dục của mình để có thể chọn được những gì phù hợp nhất với chúng.
156. Tại sao Giáo hội lại phủ nhận lý thuyết phái tính như một hệ tư tưởng?
Vốn luôn quan tâm đến vấn đề liên quan đến nam nữ, Giáo hội phủ nhận lý thuyết phái tính như một hệ tư tưởng vì Giáo hội có quyền và bổn phận can thiệp khi lợi ích tự nhiên và siêu nhiên của con người và xã hội bị đe doạ. Giáo hội đã nhận được từ Thiên Chúa một “trách nhiệm về công trình sáng tạo” (Bênêđictô XVI, Diễn từ Giáng Sinh trước giáo triều Rôma, 2008, 4). Vì lý do này, Giáo hội khởi xướng một “nền sinh thái nhân văn” giúp các quốc gia và các Nhà nước phân biệt giữa những gì tạo ra sự tiến bộ đích thực và những gì gây nên sự thoái hoá, dẫn đến sự phân hoá con người và kết cấu xã hội. (Bênêđictô XVI, Diễn từ Giáng Sinh trước Giáo triều Rôma, 2008)
157. “Nền sinh thái nhân văn” được Giáo hội đề xuất là gì?
Trong trách nhiệm của mình đối với công trình sáng tạo, Giáo hội trước hết và trên hết phải bảo vệ loài người, là một bộ phận của công trình sáng tạo. Nền sinh thái nhân văn chủ trương tôn trọng con người và “cấu trúc tự nhiên và luân lý mà con người đã được ban tặng” (CA 38). Điều này bao gồm việc quảng bá các giá trị nữ tính và nam tính như thể là nền tảng cho việc nhân bản hoá con người. “Mọi quan điểm tự cho có sự xung đột giữa các giới tính chỉ là một ảo tưởng và là một mối nguy hiểm: nó sẽ kết thúc bằng việc phân biệt đối xử và cạnh tranh giữa nam và nữ” (NN, 14).
Ở cấp độ cụ thể hơn, nền sinh thái nhân vănvận dụng vào trong các chính sách xã hội liên quan đến giáo dục, gia đình, công việc, tiếp cận các dịch vụ, sự tham gia của công dân, v.v. Một mặt, chúng ta phải chống lại mọi sự kỳ thị giới tính bất công. Mặt khác, đồng thời, việc đề cao phẩm giá bình đẳng “phải được hài hoà với sự công nhận rõ ràng về sự khác biệt và hỗ tương giữa hai giới tính, việc công nhận này có liên quan đến việc thể hiện bản chất của từng con người, dù là nam hay nữ” (Thư cho các giám mục Giáo hội Công giáo về sự cộng tác giữa nam và nữ trong Giáo hội và trên thế giới, NN, 14; x.GLHTCG 2358). (CA, 38-39; CV, 51)
158. Lý thuyết phái tính đã được gọi là một “sự thực dân hoá tư tưởng”. Điều này có ý nghĩa gì?
Lý thuyết phái tính đã được gọi là một sự thực dân hoá tư tưởng bởi vì nó cố gắng, sử dụng mọi cách theo ý mình, áp đặt tầm nhìn vô nhân đạo về tính dục, hôn nhân và gia đình, và do đó nô dịch hoá người ta (x. Phanxicô, Họp báo trên máy bay từ Phillipines đến Rôma, ngày 19 tháng 1 năm 2015). Lý thuyết phái tính tìm cách che dấu sự thao túng này. Nó tuyên bố sẽ cung cấp sự tự do lớn hơn, trong khi thực tế lại khước từ tự do. Nó tuyên bố sẽ giúp mỗi người khám phá căn tính tính dục của mình, trong thực tế, nó lại ngăn cản nam giới và nữ giới nhận ra và chấp nhận căn tính tính dục của họ. Lý thuyết phái tính không nhận ra rằng sự khác biệt và bổ sung về thể chất, luân lý và tinh thần giữa nam và nữ được hướng tới thiện ích của cuộc sống độc thân hoặc hôn nhân và sự phát triển đời sống gia đình. (GLHTCG, 2333)
159. Kitô hữu nên làm gì để chống lại ảnh hưởng tiêu cực của lý thuyết phái tính?
Nhiệm vụ này bắt đầu từ trong nhà. Kitô hữu nên tích cực tham gia vào việc giáo dục con cái của họ, bởi vì thông qua đó, văn hoá Kitô giáo được truyền lại và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ kia. Hơn nữa, môi trường gia đình phải làm sao để có những đứa trẻ học cách yêu thương để được tự do yêu thương, tôn trọng người khác để được tôn trọng và biết được khuôn mặt của Thiên Chúa trước tiên thông qua một người cha và người mẹ quan tâm đến chúng. Bằng cách này, các đứa con trai và gái khám phá ra vẻ đẹp của tình mẫu tử và tình phụ tử và qua đó cũng khám phá ra vẻ đẹp tương ứng với nữ tính và nam tính của chúng. Khi các kinh nghiệm căn bản này không có hoặc thiếu vắng, sẽ có một sự mất mát nhân tính trong xã hội; toàn xã hội phải gánh chịu và rồi lại trở thành nguồn tạo ra bạo lực. (TLHT 242-243; NN13-14; BGDCG, Hướng dẫn Giáo dục về Tình yêu Con người 1983)
6. Lao động Con người, Lao động và Quyền của Người Lao động
MARTIN SCHLAG
Cơ sở để xác định giá trị lao động con người không phải chủ yếu là loại công việc đang được thực hiện mà là sự kiện người đang lao động là một con người.
GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, LABOREM EXERCENS, 6
Lao động là một phần trong kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa và thậm chí cấu thành một con đường nên thánh. Tuy nhiên, đối với nhiều người, công việc từ lâu đã trở thành nguồn gốc của áp bức hơn là làm cho họ phát triển hết khả năng. Hoàn cảnh của người lao động, sự khốn cùng và đau khổ của họ là lý do phát sinh Thông điệp xã hội đầu tiên vào năm 1891. Kể từ đó, rất nhiều tiến bộ đã được thực hiện, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm bên trong và bên ngoài lĩnh vực lao động. Giáo hội tiếp tục công bố các quyền của người lao động nam và nữ.
160. Lao động là một phần trong kế hoạch ban đầu của Chúa hay là một hình phạt cho tội nguyên tổ?
Lao động không phải là một hình phạt cho tội lỗi. Những khó khăn, kiệt sức và thất vọng đôi khi đi kèm với lao động. Tuy nhiên, trước tội nguyên tổ, Thiên Chúa đã mời con người làm đất, canh tác và chăm sóc khu vườn nơi con người được đặt vào. Tất cả công trình sáng tạo là tốt, và được tạo ra vì lợi ích của nhân loại. Công việc là một phần của sự tốt lành này và Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác, thông qua công việc của chúng ta, trong công trình sáng tạo mà Ngài đã bắt đầu. (TLHT 255, 262; St 2,15)
161. Người nam và người nữ cộng tác như thế nào vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa khi họ lao động?
Thiên Chúa Cha đã ra lệnh cho vũ trụ qua sự Khôn ngoan của Ngài (Đức Giêsu) và qua Tình yêu của Ngài (Chúa Thánh Thần). Thông qua công việc của mình, người nam và người nữ chia sẻ trong tình yêu và sự khôn ngoan thần thiêng đó, bộc lộ kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa. Bằng cách biến đổi vật chất thành hàng hoá phục vụ người khác, chúng ta đưa sự sáng tạo của Thiên Chúa đến phục vụ nhân loại theo ý muốn của Ngài. Làm việc bên cạnh những người khác, ta làm gia tăng công ích, trên hết là vì lợi ích của những người đang túng thiếu. (TLHT 262-263, 266, 275)
162. Đức Giêsu đã dạy gì về lao động?
Đức Giêsu đã dạy chúng ta về lao động trước hết và trên hết bằng gương mẫu của Người. Người là một con người lao động và dạy ta coi trọng lao động. Chính Đức Giêsu đã bỏ nhiều năm trong cuộc đời trần thế của Người để làm việc tay chân như một người thợ mộc; và trong suốt sứ mệnh công khai của mình. Người đã làm việc không mệt mỏi, thực hiện các phép lạ và giải thoát mọi người khỏi bệnh tật, đau khổ và cái chết. (TLHT 259-261)
163. Đức Giêsu bảo các môn đệ của Người đừng lo lắng về thực phẩm và quần áo. Làm việc vì những thứ này lại không phải là trái với giáo huấn của Người ư?
Đức Giêsu không nói rằng chúng ta không cần những thứ này, hay cũng không nên lao động hoặc quan tâm đến chúng. Người muốn chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa và đừng bị nô lệ bởi nỗi sợ hãi. Công việc không nên là một nguồn lo lắng. Khi mọi người lo lắng và buồn bã về nhiều điều, họ có nguy cơ thờ ơ với Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (x. Mt 6,33). (TLHT 260)
164. Kitô giáo nói gì về lao động? Bản thân lao động có tốt không hay nó là một loại gánh nặng cần thiết, một trở ngại không cho phép ta có giờ rảnh để dành thời gian cho những theo đuổi cao hơn như gia đình, cầu nguyện và văn hoá?
Đức tin Kitô giáo tôn vinh lao động và coi đó là một nhiệm vụ của con người. Không một Kitô hữu nào có khả năng lao động mà lại có quyền không lao động, lợi dụng và sống nhờ lòng bác ái của người khác (x. 2 Th 3,6-12). Thay vào đó, tất cả đều được Tông đồ Phaolô kêu gọi hãy lấy làm vinh dự mà lao động bằng chính đôi tay của mình, để “không bị lệ thuộc vào ai” (1Th 4,12), và cũng thực hành liên đới bằng cách chia sẻ thành quả lao động của mình với “người túng thiếu” (Ep4,28)(TLHT 264). (TLHT 264-265, 274)
165. Nhưng chẳng phải vấn đề ngày nay là mọi người lao động quá nhiều và không có thời gian cho những thứ khác?
Điều này đôi khi có thể xảy ra. Lao động là một phần quan trọng trong cuộc sống chúng ta, nhưng không phải là mục đích duy nhất của đời ta. Lao động không được trở thành thần tượng vì ý nghĩa tối hậu và quyết định của cuộc sống không được tìm thấy trong lao động. Chỉ có Thiên Chúa là nguồn gốc của sự sống và là mục tiêu cuối cùng của con người. (TLHT 257)
166. Tại sao nghỉ ngơi ngày Chủ Nhật và các ngày lễ khác lại quan trọng?
Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy của công trình sáng tạo, ngày Sabat. Nếu không có sự nghỉ ngơi này, công việc của Thiên Chúa sẽ không hoàn thành. Sabat là một rào cản chống lại việc trở thành nô lệ cho công việc, và đặc biệt là để bảo vệ người nghèo chống lại sự bóc lột. Nó bảo đảm rằng lao động của con người không phá huỷ các tương quan và các cộng đồng nơi chúng ta đang sống. (TLHT 258)
Bài này đã được xem 1036 lần!