GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

255. 240

Các Ngôi vị Thiên Chúa có tương quan với nhau. Bởi vì sự phân biệt thật sự giữa các Ngôi Vị với nhau không phân chia thần tính duy nhất, nên sự phân biệt đó chỉ cốt tại các mối tương quan quy chiếu các Ngôi Vị với nhau. “Trong các danh xưng nói lên mối tương quan giữa các Ngôi vị, Chúa Cha có tương quan với Chúa Con, Chúa Con có tương quan với Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần có tương quan với Hai Ngôi kia. Khi xét về tương quan thì chúng ta nói là Ba Ngôi, nhưng chúng ta tin vào một bản tính hay một bản thể.”70 Thật vậy, giữa Ba Ngôi “mọi sự… đều là một, khi không nói đến sự đối lập về tương quan.”71 “Vì sự duy nhất đó, Chúa Cha hoàn toàn ở trong Chúa Con, hoàn toàn ở trong Chúa Thánh Thần; Chúa Con hoàn toàn ở trong Chúa Cha, hoàn toàn ở trong Chúa Thánh Thần; Chúa Thánh Thần hoàn toàn ở trong Chúa Cha, hoàn toàn ở trong Chúa Con.”72

256. 236, 684, 84

Thánh Grêgôriô thành Nazien, có biệt danh là “Nhà thần học”, cống hiến cho các dự tòng tại Constantinôpôli bản toát yếu đức tin về Ba Ngôi như sau:

“Trên hết mọi sự, tôi yêu cầu, bạn hãy gìn giữ kho tàng quý giá này, kho tàng đó là lý do để tôi sống và chiến đấu, là điều tôi muốn đem theo khi chết, là điều giúp tôi chấp nhận tất cả mọi gian khổ và khinh chê mọi lạc thú: tôi muốn nói đến đức tin, đến việc tuyên xưng vào Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Hôm nay tôi trao lời tuyên xưng đó cho bạn. Với lời tuyên xưng đức tin đó, tôi sắp dìm bạn xuống nước thanh tẩy, rồi kéo bạn lên. Tôi trao cho bạn để làm người bạn đường, người bảo trợ suốt đời, lời tuyên xưng vào một Thần Tính và một Quyền Năng duy nhất, cùng gặp được trong Ba Ngôi, và gồm Ba Ngôi một cách phân biệt, không hơn kém về bản thể hoặc bản tính, không tăng giảm về sự cao hơn hoặc thấp hơn… Ba Ngôi vô cùng, kết hợp với nhau vô cùng. Nếu xét riêng, mỗi Ngôi đều là Thiên Chúa. Nếu suy tưởng một trật, Ba Ngôi vẫn là một Thiên Chúa… Tôi vừa suy tưởng đến Thiên Chúa Duy Nhất, thì lập tức hào quang của Ba Ngôi tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi vừa bắt đầu phân biệt Ba Ngôi, thì bị kéo trở lại Thiên Chúa Duy Nhất.”73

IV. Các công trình thần linh và các sứ vụ của Ba Ngôi (257-260)

257. 221, 758, 292, 850

“Ôi nguồn sáng, Ba Ngôi diễm phúc, là Căn Nguyên Độc Nhất vũ hoàn!”74 Thiên Chúa là hạnh phúc vĩnh cửu, là sự sống bất tử, là ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình yêu: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa tự ý muốn truyền thông vinh quang của sự sống hạnh phúc của Ngài. Đó là “kế hoạch yêu thương” (Ep 1,9) mà Ngài đã cưu mang từ trước khi tạo dựng trần gian trong Con yêu dấu của Ngài, và quả thật “Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa Giê-su Ki-tô” (Ep 1,5), nghĩa là, Ngài đã tiền định cho chúng ta “nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài” (Rm 8,29) nhờ “Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử” (Rm 8,15). Kế hoạch này là ân sủng “Ngài đã ban cho chúng ta từ muôn thuở” (2 Tm 1,9), xuất phát trực tiếp từ tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Kế hoạch đó được thể hiện trong công trình tạo dựng, và sau khi con người sa ngã, trong toàn bộ lịch sử cứu độ, trong các sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, được tiếp nối trong sứ vụ của Hội Thánh.75

258. 686

Toàn bộ Nhiệm cục thần linh là công trình chung của Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì cũng như Ba Ngôi chỉ có một bản tính, Ba Ngôi cũng chỉ có cùng một hoạt động.76 “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không phải là ba nguyên lý của thụ tạo nhưng là một nguyên lý duy nhất.”77 Tuy nhiên, mỗi Ngôi Vị Thiên Chúa thực hiện công trình chung theo cách đặc thù của mình trong Ba Ngôi. Cho nên, theo sau Tân Ước,78 Hội Thánh tuyên xưng: “Một Thiên Chúa là Cha, mọi sự đều bởi Ngài; Một Chúa Giê-su Ki-tô, mọi sự đều nhờ Người; và Một Chúa Thánh Thần, mọi sự đều trong Ngài.”79 Các sứ vụ thần linh là việc Nhập thể của Chúa Con và việc trao ban Chúa Thánh Thần biểu lộ cách đặc biệt các đặc tính riêng của các Ngôi Vị Thiên Chúa.

259. 236

Toàn bộ Nhiệm cục thần linh là công trình vừa có tính chung, vừa có tính riêng, nên vừa cho thấy đặc tính của từng Ngôi Vị Thiên Chúa vừa cho thấy bản tính duy nhất của Ba Ngôi. Toàn bộ đời sống Ki-tô hữu cũng là sự hiệp thông với mỗi Ngôi Vị Thiên Chúa mà không hề phân biệt Ba Ngôi. Ai tôn vinh Chúa Cha, là làm điều đó nhờ Chúa Con trong Chúa Thánh Thần; ai bước theo Chúa Ki-tô, là làm điều đó bởi vì Chúa Cha lôi kéo người ấy80 và Chúa Thánh Thần thúc đẩy người ấy.81

260. 1050, 1721, 1997, 2565

Cùng đích của toàn bộ Nhiệm cục thần linh là đưa các thụ tạo đến hợp nhất trọn vẹn với Ba Ngôi Diễm Phúc.82 Nhưng ngay từ bây giờ, chúng ta được kêu gọi trở nên nơi cư ngụ của Ba Ngôi Chí Thánh. Chúa nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23):

“Lạy Thiên Chúa của con, lạy Ba Ngôi con tôn thờ, xin giúp con quên hẳn mình để an trú trong Chúa, bất động và thanh thản như thể linh hồn con đã ở trong cõi vĩnh hằng; xin đừng để điều gì có thể quấy phá sự bình an của con, và làm con phải ra khỏi Chúa, ôi Đấng Bất Biến của con, nhưng mỗi giây phút xin đem con vào sâu hơn nữa trong mầu nhiệm thẳm sâu của Chúa! Xin ban bình an cho linh hồn con; xin biến linh hồn con thành thiên đàng của Chúa, thành nơi cư ngụ mà Chúa ưa thích, và nơi nghỉ ngơi của Chúa. Ước gì con không bao giờ bỏ mặc Chúa một mình, nhưng ước gì con ở đó với trọn vẹn bản thân, hoàn toàn tỉnh thức trong đức tin, hoàn toàn thờ lạy, và hoàn toàn phó thác cho hoạt động sáng tạo của Chúa.”83

Tóm lược (261-267)

261. Mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh là mầu nhiệm trung tâm của đức tin và đời sống Ki-tô hữu. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cho ta biết được mầu nhiệm ấy khi Ngài tự mặc khải là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

262. Việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa mặc khải rằng Thiên Chúa là Cha từ muôn thuở, và Chúa Con là Đấng đồng bản thể với Chúa Cha, nghĩa là, Chúa Con là Thiên Chúa duy nhất trong Chúa Cha và cùng với Chúa Cha.

263. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần, Đấng Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con84, và Chúa Con sai đến “từ nơi Chúa Cha” (Ga 15,26), mặc khải rằng Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con là một Thiên Chúa duy nhất. “Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.”85

264. “Chúa Thánh Thần chủ yếu xuất phát từ Chúa Cha, mà từ đời đời Chúa Cha ban tặng cho Chúa Con, nên Chúa Thánh Thần xuất phát chung từ Hai Ngôi.”86

265. Nhờ ân sủng của bí tích Rửa Tội “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19), chúng ta được kêu gọi để tham dự vào sự sống của Ba Ngôi Diễm Phúc, “ở trần thế này trong bóng tối của đức tin và sau khi chết trong ánh sáng vĩnh cửu.”87

266. “Đức tin Công giáo là thế này, chúng ta thờ kính Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, và Ba Ngôi trong Một Thiên Chúa, mà không lẫn lộn các Ngôi Vị, không phân chia bản thể: thật vậy, Ngôi Cha là khác, Ngôi Con là khác và Ngôi Thánh Thần là khác; nhưng thần tính, sự vinh quang ngang nhau và uy quyền vĩnh cửu của Chúa Cha, của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần là một.”88

267. Các Ngôi vị thần linh không thể tách rời nhau trong cùng một bản thể duy nhất, thì cũng không thể tách rời nhau trong các hoạt động của mình. Nhưng trong hoạt động thần linh duy nhất này, mỗi Ngôi vị hiện diện theo cách đặc thù của mình trong Ba Ngôi, nhất là trong các sứ vụ thần linh là việc Nhập Thể của Chúa Con và việc trao ban Chúa Thánh Thần.


Chú thích

33 Thánh Xê-daiô Arêlatensê, Expositio vel traditio Symboli (Sermo 9): CCL 103,47.

34 X. Vigiliô, Professio fidei (552): DS 415.

35 X. Thánh bộ Giáo sĩ, Directorium catechisticum generale, 43: AAS 64 (1972) 123.

36 Thánh bộ Giáo sĩ, Directorium catechisticum generale, 47: AAS 64 (1972) 125.

37 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 4: DS 3015.

38 X. Đnl 32,6; Ml 2,10.

39 X. 2 Sm 7,14.

40 X. Tv 68,6.

41 X. Is 66,13; Tv 131,2.

42 X. Tv 27,10.

43 X. Ep 3,14-15; Is 49,15.

44 Tín biểu Ni-xê-a: DS 125.

45 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

46 X. St 1,2.

47 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

48 X. Ga 14,17.

49 X. Ga 14,26.

50 X. Ga 14,26; 15,26; 16,14.

51 X. Ga 7,39.

52 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

53 CĐ Tôlêđô VI (năm 638), De Trinitate et de Filio Dei Redemptore incarnato: DS 490.

54 CĐ Tôlêđô XI (năm 675), Tín biểu: DS 527.

55 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

56 CĐ Florentina, Decretum pro Graecis: DS 1300-1301.

57 X. Thánh Lê-ô Cả, Epistula Quam laudabiliter: DS 284.

58 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 2: AAS 58 (1966) 948.

59 CĐ Florentina, Decretum pro Graecis (năm 1439): DS 1302.

60 CĐ Florentina, Decretum pro Iacobitis (năm 1442): DS 1331.

61 CĐ Lyon II, Constitutio de Summa Trinitate et fide catholica (1274): DS 850.

62 X. 1 Cr 12,4-6; Ep 4,4-6.

63 ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 9: AAS 60 (1968) 437.

64 CĐ Constantinôpôli II (năm 553), Anathematismi de tribus Capitulis, 1: DS 421.

65 CĐ Tôlêđô XI (năm 675), Tín biểu: DS 530.

66 CĐ La-tê-ra-nô IV (năm 1215), Cap. 2, De errore abbatí Ioachim: DS 804.

67 Fides Damasi: DS 71.

68 CĐ Tôlêđô XI (năm 675), Tín biểu: DS 530.

69 CĐ La-tê-ra-nô IV (năm 1215), Cap. 2, De errore abbati Ioachim: DS 804.

70 CĐ Tôlêđô XI (năm 675), Tín biểu: DS 528.

71 CĐ Florentina, Decretum pro Iacobitis (năm 1442) DS 1330.

72 CĐ Florentina, Decretum pro Iacobitis (năm 1442) DS 1331.

73 Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio, 40, 41: SC 358,292-294 (PG 36,417).

74 Thánh thi Kinh Chiều II Chúa nhật, Tuần 2 và 4: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.3 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 684 và 931; v.4 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 632 và 879.

75 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 2-9: AAS 58 (1966) 948-958.

76 X. CĐ Constantinôpôli II (năm 553) Anathematismi de tribus Capitulis, 1: DS 421.

77 CĐ Florentina, Decretum pro Iacobitis (năm 1442) DS 1331.

78 X. 1 Cr 8,6.

79 CĐ Constantinôpôli II (năm 553) Anathematismi de tribus Capitulis, 1: DS 421.

80 X. Ga 6,44.

81 X. Rm 8,14.

82 X. Ga 17,21-23.

83 Chân phước Ê-li-sa-bét Chúa Ba Ngôi, Lời nguyện dâng Chúa Ba Ngôi: Ecrits spirituels, 50, ed. M.M. Philipon (Paris 1949) 80.

84 X. Ga 14,26.

85 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

86 Thánh Augustinô, De Trinitate, 15, 26, 47: CCL 50A, 529 (PL 42,1095).

87 ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 9: AAS 60 (1968) 436.

88 Tín biểu “Quicumque”: DS 75.

 

 

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

268. 222

Trong tất cả các phẩm tính thần linh, Tín biểu chỉ nhắc đến sự toàn năng của Thiên Chúa: việc tuyên xưng Thiên Chúa Toàn Năng là rất quan trọng đối với đời sống chúng ta. Chúng ta tin rằng sự toàn năng của Ngài là phổ quát, bởi vì Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng mọi sự,89 điều khiển và làm được mọi sự; sự toàn năng của Thiên Chúa tràn đầy tình yêu, bởi vì Ngài là Cha chúng ta;90 sự toàn năng của Thiên Chúa là mầu nhiệm, bởi vì chỉ có đức tin có thể nhận ra sự toàn năng đó, khi nó được “biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,9).91

“Muốn làm gì là Chúa làm nên” (Tv 115,3) (269)

269. 303

Thánh Kinh thường tuyên xưng quyền năng phổ quát của Thiên Chúa. Ngài được gọi là “Đấng Quyền Năng của Gia-cóp” (St 49,24; Is 1,24…), “Chúa các đạo binh”, “Đấng Mạnh Mẽ, Đấng Oai Hùng” (Tv 24,8-10). Vì vậy, Thiên Chúa là Đấng toàn năng “chốn trời cao cùng nơi đất thấp” (Tv 135,6), bởi vì chính Ngài đã tạo dựng nên chúng. Không có gì mà Ngài không làm được,92 và Ngài sắp đặt công trình của Ngài theo ý Ngài;93 Ngài là Chúa cả trần gian, Ngài đã thiết lập trật tự cho nó, và trật tự đó hoàn toàn quy phục Ngài và phục vụ Ngài. Ngài là Chúa của lịch sử: Ngài điều khiển các tâm hồn và các biến cố theo ý Ngài:94 “Quyền năng Chúa luôn luôn vĩ đại, ai chống nổi cánh tay dũng mãnh của Ngài?” (Kn 11,21).

“Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự” (Kn 11,23) (270-271)

270. 2777, 1441

Thiên Chúa là Cha toàn năng. Tình phụ tử và quyền năng của Ngài soi sáng lẫn nhau. Quả thế, Ngài cho thấy sự toàn năng đầy tình Cha của Ngài qua cách Ngài chăm lo cho những nhu cầu của chúng ta;95 qua việc Ngài nhận chúng ta làm nghĩa tử (“Ta sẽ là Cha các ngươi, và các ngươi sẽ là con trai, con gái của Ta, Chúa toàn năng phán như vậy”: (2 Cr 6,18); sau hết, Ngài bày tỏ rõ ràng quyền năng của Ngài qua lòng khoan dung vô tận, khi Ngài tự ý tha thứ các tội lỗi.

271. Sự toàn năng của Thiên Chúa không hề có tính chất độc đoán: “Nơi Thiên Chúa, quyền năng và yếu tính, ý muốn và trí tuệ, sự khôn ngoan và sự công chính là một. Do đó, không có gì trong quyền năng của Thiên Chúa mà không ở trong ý muốn công chính của Ngài, và trong trí tuệ khôn ngoan của Ngài.”96

Mầu nhiệm về sự “bề ngoài có vẻ bất lực” của Thiên Chúa (272-274)

272. 309, 412, 609, 648

Đức tin vào Thiên Chúa là Cha toàn năng có thể bị thử thách do kinh nghiệm về sự dữ và đau khổ. Đôi khi Thiên Chúa có thể bị coi như vắng mặt và bất lực không ngăn chặn được sự dữ. Thật ra, Thiên Chúa là Cha đã mặc khải sự toàn năng của Ngài một cách hết sức huyền nhiệm trong việc Con của Ngài tự nguyện hạ mình và sống lại, nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự dữ. Như vậy, Đức Ki-tô bị đóng đinh là sức mạnh của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thiên Chúa “vì sự điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1,25). Trong việc Đức Ki-tô sống lại và được tôn vinh, Chúa Cha biểu dương “sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực” của Ngài và cho thấy “quyền lực vô cùng lớn lao” của Ngài mà “Ngài đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1,19-22).

273. 148

Chỉ đức tin mới có thể gắn bó với những đường lối mầu nhiệm của sự toàn năng của Thiên Chúa. Đức tin này tự hào về những yếu kém của mình, để lôi kéo quyền năng của Đức Ki-tô xuống trên mình.97 Gương mẫu cao cả nhất của một đức tin như thế là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ là người đã tin rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37) và đã ngợi khen Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Ngài thật chí thánh chí tôn” (Lc 1,49).

274. 1814, 1817

“Không gì có thể củng cố đức tin và đức cậy của chúng ta bằng việc chúng ta xác tín trong tâm hồn rằng: không có gì mà Thiên Chúa không làm được. Từ chỗ đó, sau khi lý trí đã có ý niệm về Thiên Chúa toàn năng, thì những điều phải tin, dù là cao cả và kỳ diệu, và vượt quá trật tự và cách thức của các sự việc, lý trí con người vẫn chấp nhận một cách dễ dàng, không chút do dự.”98

Tóm lược (275-278)

275. Cùng với ông Gióp, người công chính, chúng ta tuyên xưng: “Con biết rằng việc gì Chúa cũng làm được, không có gì Chúa đã định trước mà lại không thành tựu” (G 42,2).

276. Hội Thánh, trung thành với chứng từ của Thánh Kinh, thường dâng lời cầu nguyện lên “Thiên Chúa toàn năng hằng hữu” (“Omnipotens sempiterne Deus…”), trong khi vững tin rằng: “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).99

277. Thiên Chúa cho thấy sự toàn năng của Ngài, khi Ngài làm cho chúng ta hối cải bỏ đàng tội lỗi và Ngài lấy ân sủng mà đưa chúng ta trở lại trong tình bằng hữu với Ngài (“Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả”).100

278. Nếu ai không tin rằng tình yêu của Thiên Chúa là toàn năng, thì làm thế nào người đó tin được rằng Thiên Chúa đã có thể tạo dựng chúng ta, Chúa Con đã có thể cứu chuộc chúng ta, Chúa Thánh Thần đã có thể thánh hóa chúng ta?


Chú thích

89 X. St 1,1; Ga 1,3.

90 X. Mt 6,9.

91 X. 1 Cr 1,18.

92 X. Gr 32,17; Lc 1,37.

93 X. Gr 27,5.

94 X. Et 4,17c; Cn 21,1; Tb 13,2.

95 X. Mt 6,32.

96 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I, q. 25, a. 5, ad 1: Ed. Leon. 4, 297.

97 X. 2 Cr 12,9; Pl 4,13.

98 Catechismus Romanus, 1, 2, 13: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano- Pamplona) 31.

99 X. St 18,14; Mt 19,26.

100 Chúa nhật XXVI Thường Niên, Lời nguyện nhập lễ: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 365.

 

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

279. “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa đã tạo thành trời đất” (St 1,1). Những lời long trọng này đã mở đầu bộ Thánh Kinh. Tín biểu lấy lại những lời đó khi tuyên xưng Thiên Chúa là Cha toàn năng, “Đấng tạo thành trời đất”,101 “muôn vật hữu hình và vô hình.”102 Vì vậy, trước hết, chúng ta nói về Đấng Tạo Hóa, kế đến về công trình tạo dựng của Ngài, sau hết về việc con người sa ngã phạm tội, rồi được Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, đến giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi.

280. 288, 1043

Công trình tạo dựng là nền tảng liên quan đến mọi sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa”, “khởi đầu của lịch sử cứu độ”103 mà Đức Ki-tô là tột đỉnh. Ngược lại, mầu nhiệm Đức Ki-tô là ánh sáng quyết định soi tỏ mầu nhiệm tạo dựng; mầu nhiệm Đức Ki-tô mặc khải cùng đích của việc “lúc khởi đầu, Thiên Chúa đã sáng tạo trời đất” (St 1,1): ngay từ đầu, Thiên Chúa đã nhắm tới vinh quang của công trình tạo dựng mới trong Đức Ki-tô.104

281. 1095

Vì vậy, các bài Sách Thánh trong đêm Canh thức Vượt Qua, đêm mừng công trình tạo dựng mới trong Đức Ki-tô, bắt đầu bằng bài tường thuật công trình tạo dựng. Trong phụng vụ Byzantin, bài tường thuật này luôn là bài đọc thứ nhất trong lễ vọng các đại lễ kính Chúa. Theo một chứng từ cổ xưa, việc dạy các dự tòng để chịu phép Rửa Tội cũng theo cùng một đường lối đó.105

I. Dạy giáo lý về công trình tạo dựng (282-289)

282. 1730

Việc dạy giáo lý về công trình tạo dựng là hết sức quan trọng. Nó liên quan đến chính nền tảng của cuộc sống làm người và làm Ki-tô hữu: vì nó đem lại câu trả lời của đức tin Ki-tô Giáo cho câu hỏi căn bản mà con người của mọi thời đại thường đặt ra cho mình: “Chúng ta từ đâu tới?” “Chúng ta đi về đâu?” “Nguồn gốc của chúng ta là gì?” “Cùng đích của chúng ta là gì?” “Mọi vật hiện hữu từ đâu tới và đi về đâu?” Hai câu hỏi này, về nguồn gốc và cùng đích, không thể tách rời nhau. Chúng có tính cách quyết định đối với ý nghĩa và định hướng cho cuộc đời chúng ta và cho cách thức hành động của chúng ta.

283. 159, 341

Câu hỏi về nguồn gốc trần gian và con người là đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu khoa học, giúp mở rộng tầm hiểu biết của chúng ta về độ tuổi và các chiều kích của trần gian, về sự hình thành các dạng sinh vật, về sự xuất hiện đầu tiên của loài người. Những khám phá này mời gọi chúng ta thêm lòng cảm phục sự cao cả của Đấng Tạo Hóa, tạ ơn Ngài vì các công trình của Ngài, vì sự thông minh và tài năng Ngài đã ban cho các nhà bác học và các nhà nghiên cứu. Cùng với vua Salômôn, những vị này có thể nói: “Chính Ngài đã khấng ban cho tôi tri thức xác thực về những gì đang hiện hữu, để tôi thấu hiểu cơ cấu của vũ trụ và năng lực của các nguyên tố tạo thành… Vì chính người thợ làm ra muôn vật muôn loài đã chỉ dạy cho tôi. Người thợ ấy chính là Đức Khôn Ngoan” (Kn 7,17-21).

284. Sự quan tâm lớn lao dành cho các công cuộc nghiên cứu này còn được thúc đẩy mạnh mẽ bởi một câu hỏi thuộc một lãnh vực khác, vượt quá phạm vi của các khoa học tự nhiên. Vấn đề không phải chỉ là tìm hiểu trần gian vật chất phát sinh khi nào và cách nào, và con người đã xuất hiện lúc nào, nhưng quan trọng hơn, chính là khám phá ra ý nghĩa của nguồn gốc đó: Phải chăng trần gian bị điều khiển bởi một sự ngẫu nhiên, một định mệnh mù quáng, một tất yếu vô danh, hay được điều khiển bởi một Hữu Thể siêu việt, thông minh và tốt lành, được gọi là Thiên Chúa? Và nếu trần gian xuất phát từ sự khôn ngoan và tốt lành của Thiên Chúa, thì tại sao lại có sự dữ? Nó từ đâu ra? Ai chịu trách nhiệm về nó? Có cách nào thoát khỏi sự dữ không?

Bài này đã được xem 5653 lần!

Pages ( 11 of 96 ): <1 ... 910 11 1213 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]