GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

285. 295, 28

Từ buổi đầu, đức tin Ki-tô Giáo đã đối mặt với những giải đáp khác với giải đáp của mình về vấn đề nguồn gốc. Người ta gặp trong các tôn giáo và các văn hóa cổ xưa nhiều huyền thoại về vấn đề nguồn gốc. Một số triết gia đã cho rằng mọi sự đều là Thần Linh, trần gian là Thần Linh, hoặc quá trình tiến hóa của trần gian là quá trình tiến hóa của Thần Linh (thuyết phiếm thần); một số khác cho rằng trần gian là một xuất phát tất yếu của Thần Linh, từ Thần Linh phát ra và trở về với Ngài; một số khác nữa khẳng định sự hiện hữu của hai nguyên lý vĩnh cửu, Thiện và Ác, Ánh Sáng và Bóng Tối, luôn giao tranh với nhau (thuyết nhị nguyên, thuyết của Manikê); một số người theo các thuyết ấy cho rằng thế giới (ít nhất là thế giới vật chất) là xấu, là sản phẩm của một sự sa ngã, vì vậy cần phải loại bỏ đi hoặc phải vượt khỏi (thuyết ngộ đạo); những người khác lại cho rằng trần gian do Thiên Chúa tạo nên, theo kiểu một người thợ làm ra cái đồng hồ, làm ra rồi để nó tự vận hành (tự nhiên thần giáo); cuối cùng, có những người không chấp nhận một nguồn gốc siêu việt nào của trần gian, chỉ coi trần gian thuần túy là sự tương tác của vật chất vẫn luôn hiện hữu (thuyết duy vật). Tất cả những cố gắng đó cho thấy rằng câu hỏi về vấn đề nguồn gốc là một thắc mắc muôn thuở và phổ quát. Việc tìm kiếm này là một nét đặc trưng của con người.

286. 32, 37

Chính trí thông minh của loài người có khả năng tìm ra câu trả lời cho câu hỏi về nguồn gốc. Thật vậy, sự hiện hữu của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, có thể được nhận biết một cách chắc chắn bằng ánh sáng của lý trí con người, nhờ các công trình của Ngài,106 mặc dù sự nhận biết đó thường bị mờ tối và lệch lạc vì sai lầm. Chính vì vậy, cần có đức tin củng cố và soi sáng lý trí để hiểu biết chân lý này cách chính xác. “Nhờ đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ đã được hình thành bởi lời của Thiên Chúa; vì thế, những cái hữu hình là do những cái vô hình mà có” (Dt 11,3).

287. 107

Chân lý về công trình tạo dựng rất quan trọng đối với toàn bộ cuộc sống con người, nên Thiên Chúa, do lòng nhân hậu của Ngài, đã muốn mặc khải cho Dân Ngài nhận biết những điều hữu ích về vấn đề này. Vượt trên sự hiểu biết tự nhiên mà bất cứ người nào cũng có thể có được về Đấng Tạo Hóa,107 Thiên Chúa đã dần dần 280 mặc khải cho Ít-ra-en mầu nhiệm tạo dựng. Thiên Chúa, Đấng đã chọn các tổ phụ, Đấng đã đưa Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập, Đấng đã tạo dựng và huấn luyện Ít-ra-en khi tuyển chọn dân này làm dân riêng của Ngài,108 chính Ngài đã tự mặc khải mình là Đấng làm chủ mọi dân tộc trên mặt đất, và cả toàn cõi đất, mình là Đấng duy nhất “đã dựng nên trời đất” (Tv 115,15; 124,8; 134,3).

288. 280, 2569

Việc mặc khải về công trình tạo dựng như vậy không thể tách rời khỏi việc mặc khải và thực hiện Giao Ước của Thiên Chúa duy nhất với dân Ngài. Công trình tạo dựng được mặc khải như bước đầu hướng tới Giao Ước này, như chứng từ đầu tiên và phổ quát của tình yêu toàn năng của Thiên Chúa.109 Vì thế, chân lý về công trình tạo dựng cũng được diễn tả ngày càng mạnh mẽ trong sứ điệp của các Tiên tri,110 trong lời cầu nguyện của các Thánh vịnh111 và của phụng vụ, trong suy tư về sự khôn ngoan112 của dân Chúa chọn.

289. 390, 111

Trong tất cả những lời Thánh Kinh nói về công trình tạo dựng, ba chương đầu của sách Sáng Thế có một chỗ đứng độc đáo. Về phương diện văn chương, những bản văn đó có thể do nhiều nguồn khác nhau. Các tác giả được linh hứng đã đặt các bản văn này ở đầu Sách Thánh để long trọng diễn tả những chân lý về công trình tạo dựng, về nguồn gốc và cùng đích của công trình đó trong Thiên Chúa, về trật tự và sự tốt lành của nó, về ơn gọi của con người, và cuối cùng về thảm kịch tội lỗi và niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Những lời này, được đọc dưới ánh sáng của Chúa Ki-tô, trong sự thống nhất của Thánh Kinh, và trong Truyền thống sống động của Hội Thánh, vẫn là nguồn chính yếu cho việc dạy giáo lý về những mầu nhiệm của “lúc khởi đầu”: việc tạo dựng, sự sa ngã, lời hứa ban ơn cứu độ.

II. Tạo dựng – Công trình của Ba Ngôi Chí Thánh (290-292)

290. 326

“Lúc khởi đầu Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất” (St 1,1): những lời đầu tiên này của Thánh Kinh xác quyết ba điều: Thiên Chúa vĩnh cửu đã ban một khởi điểm cho tất cả những gì hiện hữu bên ngoài Ngài. Duy chỉ mình Ngài là Đấng Tạo hóa (động từ “tạo dựng”- tiếng hipri là bara – luôn có chủ từ là Thiên Chúa). Tất cả những gì hiện hữu (được diễn tả bằng thuật ngữ “trời đất”) đều tùy thuộc vào Đấng đã cho chúng hiện hữu.

291. 241, 331, 703

“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời… và Ngôi Lời là Thiên Chúa… Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3). Tân Ước mặc khải rằng: Thiên Chúa đã tạo dựng tất cả nhờ Ngôi Lời vĩnh cửu là Con yêu dấu của Ngài. “Trong Người, muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất… Tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1,16-17). Đức tin của Hội Thánh cũng xác quyết một cách tương tự về hoạt động tạo dựng của Chúa Thánh Thần: Ngài, Đấng chúng ta tuyên xưng là “Đấng ban sự sống”,113 là “Thần Khí Sáng Tạo” (“Veni, Creator Spiritus”: “Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin ngự đến”), là “Nguồn mạch của sự thiện hảo.”114

292. 699, 257

Hành động tạo dựng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là một, một cách không thể tách biệt, với hành động tạo dựng của Chúa Cha, là điều đã được thoáng thấy trong Cựu Ước,115 đãø được mặc khải trong Tân Ước, nay được quy luật đức tin của Hội Thánh xác định rõ ràng: “Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất […]: Ngài là Cha, là Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hóa, là Tác Giả, là Đấng làm nên mọi sự, Đấng tự mình tác tạo mọi sự, nghĩa là nhờ Lời và đức Khôn Ngoan của Ngài”;116 “Chúa Con và Chúa Thánh Thần” là như “những bàn tay” của Ngài.117 Tạo dựng là công trình chung của Ba Ngôi Chí Thánh.

III. “Trần gian được tạo dựng để làm vinh danh Thiên Chúa” (293-294)

293. 337, 344, 1361, 759

Chân lý căn bản, mà Thánh Kinh và Truyền Thống không ngừng giảng dạy và cử hành, là: “Trần gian được tạo dựng để làm vinh danh Thiên Chúa.”118 Thánh Bonaventura giải thích: Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự “không phải để gia tăng vinh quang, nhưng để biểu lộ và truyền thông vinh quang của Ngài.”119 Quả thật, Thiên Chúa không thể có lý do nào khác để tạo dựng, ngoài tình yêu và sự tốt lành của Ngài: “Khi tay Ngài được mở ra bằng chìa khóa của tình yêu, thì các thụ tạo xuất hiện.”120 Công đồng Va-ti-ca-nô I giải thích:

“Thiên Chúa, do sự tốt lành và uy quyền toàn năng của Ngài, không phải để gia tăng hoặc đạt được vinh phúc của Ngài, nhưng để biểu lộ sự trọn hảo của Ngài qua những điều thiện hảo Ngài ban cho các thụ tạo, do ý định hoàn toàn tự do của Ngài, lúc khởi đầu thời gian, đã tạo dựng mọi loài từ hư vô, cả loài thiêng liêng lẫn loài có thể xác.”121

294. 2809, 1722, 1992

Vinh quang của Thiên Chúa cốt tại việc biểu lộ và truyền thông sự tốt lành của Ngài, vì đó mà trần gian đã được tạo dựng. “Theo ý muốn nhân hậu của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho ta” (Ep 1,5-6). “Thật vậy, vinh quang của Thiên Chúa là con người sống, và sự sống của con người là được nhìn thấy Thiên Chúa. Nếu sự mặc khải của Thiên Chúa qua công trình tạo dựng đã đem đến sự sống cho mọi loài trên trái đất, thì việc Ngôi Lời biểu lộ Chúa Cha lại càng đem lại sự sống gấp bội cho những ai thấy Thiên Chúa.”122 Mục đích tối hậu của công trình tạo dựng là Thiên Chúa, “Đấng dựng nên mọi loài, cuối cùng sẽ ‘có toàn quyền trên muôn loài’ (1 Cr 15,28), đem lại vinh quang cho Ngài và đồng thời đem lại vinh phúc cho chúng ta.”123

IV. Mầu nhiệm tạo dựng (295-301)

Thiên Chúa tạo dựng bằng sự khôn ngoan và tình yêu (295)

295. 216, 1951

Chúng ta tin Thiên Chúa đã tạo dựng trần gian theo sự khôn ngoan của Ngài.124 Trần gian không phải là sản phẩm của bất cứ một luật tất yếu, một định mệnh mù quáng hoặc một sự ngẫu nhiên nào. Chúng ta tin trần gian xuất phát từ ý muốn tự do của Thiên Chúa, Đấng đã muốn cho các thụ tạo được tham dự vào hữu thể, sự khôn ngoan và sự tốt lành của Ngài. “Ngài đã dựng nên muôn vật, và do ý Ngài muốn, mọi loài liền có và được dựng nên” (Kh 4,11). “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan” (Tv 104,24). “Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145,9).

Thiên Chúa tạo dựng “từ hư vô” (296-298)

296. 285

Chúng ta tin Thiên Chúa tạo dựng mà không cần một thứ gì đã hiện hữu trước, cũng không cần một sự trợ giúp nào.125 Công trình tạo dựng cũng không phải là một sự xuất phát tất yếu từ bản thể Thiên Chúa.126 Thiên Chúa tạo dựng một cách tự do “từ hư vô” (“ex nihilo”):127

“Nếu Thiên Chúa làm nên trần gian từ một chất liệu có trước, thì có gì là cao cả? Một người thợ giữa chúng ta, khi nhận được vật liệu từ ai đó, cũng làm ra được những gì anh ta muốn. Nhưng quyền năng của Thiên Chúa được chứng tỏ trong điều này, là từ hư vô, Ngài làm nên bất cứ những gì Ngài muốn.”128

297. 338

Thánh Kinh làm chứng đức tin về việc tạo dựng “từ hư vô” như một chân lý đầy hứa hẹn và hy vọng. Một bà mẹ đã khuyến khích bảy người con mình chịu tử đạo như sau:

“Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gồc muôn loài. Chính Ngài do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Ngài hơn bản thân mình… Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy” (2 Mcb 7,22-23.28).

298. 1375, 992

Bởi vì Thiên Chúa có thể tạo dựng từ hư vô, nên Ngài, “Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hóa có” (Rm 4,17), cũng có thể, nhờ Chúa Thánh Thần, ban sự sống phần hồn cho các tội nhân bằng cách tạo cho họ một quả tim tinh tuyền,129 và ban sự sống phần xác cho người đã chết qua việc phục sinh. Và bởi vì Ngài đã có thể lấy Lời của Ngài mà làm cho ánh sáng bừng lên từ bóng tối,130 nên Ngài cũng có thể ban ánh sáng đức tin cho những kẻ chưa biết Ngài.131

Thiên Chúa tạo dựng một thế giới trật tự và tốt lành (299)

299. 339, 41, 1147, 358, 2415

Nếu Thiên Chúa tạo dựng một cách khôn ngoan, thì công trình tạo dựng là có trật tự: “Chúa đã sắp xếp có chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc cả rồi” (Kn 11,20). Trần gian được tạo dựng trong Ngôi Lời vĩnh cửu và nhờ Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1,15), trần gian đó là dành cho con người và hướng tới con người, là hình ảnh của Thiên Chúa,132 và được kêu gọi để sống trong tương quan cá vị với Thiên Chúa. Trí khôn của chúng ta, được tham dự vào ánh sáng của Đấng Thượng trí thần linh, có thể hiểu được những điều Thiên Chúa nói với chúng ta qua công trình tạo dựng,133 tuy phải cố gắng nhiều, và trong tinh thần khiêm tốn và kính trọng trước Đấng Tạo Hóa và công trình của Ngài.134 Công trình tạo dựng, được phát sinh do sự tốt lành của Thiên Chúa, nên nó được dự phần vào sự tốt lành này (“Và Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp,… là rất tốt đẹp”: St 1,4.10.12.18.21.31). Quả thật, Thiên Chúa đã muốn công trình tạo dựng là như một quà tặng dành cho con người, như một gia sản được gởi gắm và ủy thác cho con người. Nhiều lần Hội Thánh đã phải biện hộ cho sự tốt lành của công trình tạo dựng, bao gồm cả sự tốt lành của thế giới vật chất.135

Thiên Chúa vừa siêu việt trên công trình tạo dựng, vừa hiện diện nơi công trình tạo dựng (300)

300. 42, 223

Thiên Chúa vô cùng cao cả hơn các công trình của Ngài:136 “Uy phong Ngài vượt quá trời cao” (Tv 8,2). “Ngài cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145,3). Nhưng bởi vì Ngài là Đấng Tạo Hóa tối cao và tự do, là căn nguyên đệ nhất của tất cả những gì hiện hữu, nên Ngài hiện diện nơi thâm sâu nhất của các thụ tạo của Ngài: “Chính ở nơi Ngài mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28). Theo lời thánh Augustinô: Ngài “thâm sâu hơn sự thâm sâu nhất của tôi và cao vời hơn tột đỉnh của tôi.”137

Thiên Chúa giữ gìn và nâng đỡ công trình tạo dựng (301)

301. 1951, 396

Sau khi tạo dựng, Thiên Chúa không bỏ mặc thụ tạo của Ngài. Không những Thiên Chúa cho chúng hữu thể và hiện hữu, nhưng Ngài còn luôn luôn giữ gìn chúng “hiện hữu”, cho chúng có thể hoạt động và dẫn đưa chúng đến cùng đích của chúng. Nhận biết sự lệ thuộc tuyệt đối như vậy vào Đấng Tạo hóa là nguồn mạch của sự khôn ngoan và tự do, của niềm vui và sự tin tưởng:

“Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11,24-26).

V. Thiên Chúa thực hiện kế hoạch của Ngài: Sự quan phòng của Thiên Chúa (302-314)

302. Công trình tạo dựng có sự tốt lành và hoàn hảo riêng, nhưng chưa tuyệt đối trọn vẹn khi xuất phát từ bàn tay Đấng Tạo Hóa. Trần gian được tạo dựng “trong tình trạng lên đường” (“in statu viae”) hướng đến sự hoàn hảo cuối cùng mà Thiên Chúa đã định cho chúng. Những sắp xếp nhờ đó Thiên Chúa dẫn đưa công trình tạo dựng của Ngài tới sự hoàn hảo đó, chúng ta gọi là sự quan phòng của Thiên Chúa.

“Quả thật, nhờ sự quan phòng của Ngài, Thiên Chúa gìn giữ và điều khiển tất cả những gì Ngài đã tạo dựng, ‘từ chân trời này vươn mạnh tới chân trời kia, Ngài cai quản mọi loài thật tốt đẹp’ (Kn 8,1). ‘Nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mắt Ngài’ (Dt 4,13), kể cả những điều trong tương lai do hành động tự do của các thụ tạo.”138

303. 269

Chứng từ của Thánh Kinh đều đồng nhất: Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự cách cụ thể và trực tiếp, Ngài quan tâm đến tất cả mọi sự, từ những điều nhỏ nhất đến những biến cố trọng đại của trần gian và của lịch sử. Sách Thánh xác quyết mạnh mẽ quyền chủ tể tuyệt đối của Thiên Chúa trong dòng chảy của các biến cố: “Thiên Chúa chúng ta ở trên trời, muốn làm gì là Chúa làm nên” (Tv 115,3); và Sách Thánh nói về Đức Ki-tô: “Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được” (Kh 3,7). “Lòng con người ấp ủ bao dự tính, duy kế hoạch của Chúa mới trường tồn” (Cn 19,21).

304. 2568

Chúng ta nhận thấy điều này là, Chúa Thánh Thần, tác giả chính của Thánh Kinh, thường quy các hành động về Thiên Chúa, mà không nhắc đến các nguyên nhân đệ nhị. Đó không phải là “cách nói” sơ khai, nhưng là cách sâu sắc để nhắc nhớ đến quyền tối thượng của Thiên Chúa và quyền chủ tể tuyệt đối của Ngài trên lịch sử và trần gian,139 và như vậy, để dạy người ta phải tín thác vào Ngài. Cách cầu nguyện của các Thánh vịnh là trường huấn luyện quan trọng về niềm tín thác này.140

305. 2115

Chúa Giê-su đòi hỏi chúng ta phó thác với tình con thảo cho sự quan phòng của Cha trên trời, Đấng chăm sóc đến những nhu cầu nhỏ bé nhất của con cái Ngài: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì? uống gì?… Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho” (Mt 6,31-33).141

Sự quan phòng và các nguyên nhân đệ nhị (306-308)

306. 1884, 1951

Thiên Chúa là Chúa tể của kế hoạch của Ngài. Nhưng để thực hiện kế hoạch ấy, Ngài cũng dùng đến sự cộng tác của các thụ tạo. Đây không phải là dấu hiệu của sự yếu kém, nhưng là dấu chỉ của sự cao cả và lòng nhân hậu của Thiên Chúa toàn năng. Quả vậy, Thiên Chúa không những ban cho các thụ tạo được hiện hữu, nhưng còn ban cho chúng phẩm giá để chúng hoạt động, để chúng nên nguyên nhân và nguyên lý cho nhau, và như vậy, để chúng cộng tác vào việc hoàn thành kế hoạch của Ngài.

Bài này đã được xem 5734 lần!

Pages ( 12 of 96 ): <1 ... 1011 12 1314 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]