307. 106, 373, 1954, 2427, 2738, 618, 1505
Đối với con người, Thiên Chúa còn ban cho dư đầy khả năng để tham dự một cách tự do vào sự quan phòng của Ngài, khi trao cho họ trách nhiệm làm chủ trái đất và thống trị nó.142 Như vậy, Thiên Chúa cho con người trở nên những nguyên nhân thông minh và tự do để hoàn thành công trình tạo dựng, và thực hiện sự hài hòa của công trình ấy hầu mưu ích cho chính mình và cho tha nhân. Con người, những cộng tác viên thường là vô ý thức, của thánh ý Thiên Chúa, có thể tham gia một cách ý thức vào kế hoạch của Thiên Chúa bằng hành động, bằng kinh nguyện, và cả bằng các đau khổ của mình.143 Như vậy, họ trở thành “những cộng sự viên của Thiên Chúa” (1 Cr 3,9)144 và của Nước Ngài145 cách trọn vẹn.
308. 970
Chân lý sau đây là không thể tách rời khỏi đức tin vào Thiên Chúa Tạo Hóa: Thiên Chúa hành động trong mọi hoạt động của các thụ tạo của Ngài. Ngài là nguyên nhân đệ nhất, hành động trong và qua các nguyên nhân đệ nhị: “Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Ngài” (Pl 2,13).146 Chân lý này không những không làm giảm bớt phẩm giá của thụ tạo, nhưng còn nâng nó lên. Thụ tạo, được tạo dựng từ hư vô bởi quyền năng, sự khôn ngoan và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, không thể làm gì được nếu bị cắt khỏi nguồn gốc của mình; “vì không có Đấng Tạo Hóa, thụ tạo sẽ tan biến”;147 thụ tạo lại càng không thể đạt tới cùng đích tối hậu của mình nếu không có sự trợ giúp của ân sủng.148
Thiên Chúa quan phòng và cớ vấp phạm của sự dữ (309-314)
309. 164, 385, 2850
Nếu Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng nên trần gian có trật tự và tốt đẹp, chăm sóc tất cả các thụ tạo của Ngài, thì tại sao lại có sự dữ? Trước câu hỏi vừa khẩn thiết vừa không thể tránh được, vừa bi thảm vừa bí nhiệm này, không câu trả lời vội vàng nào là đầy đủ được. Chỉ có toàn bộ đức tin Ki-tô Giáo mới là câu trả lời cho câu hỏi này: sự tốt đẹp của công trình tạo dựng, thảm kịch tội lỗi, tình yêu kiên nhẫn của Thiên Chúa, Đấng đã đi bước trước đến với con người qua các Giao Ước của Ngài, qua việc Con Ngài Nhập Thể đem lại ơn cứu chuộc, qua việc ban Chúa Thánh Thần, qua việc quy tụ Hội Thánh, qua sức mạnh của các bí tích, qua việc kêu gọi tới cuộc sống vĩnh phúc, mà ngay từ đầu các thụ tạo có tự do được mời gọi đón nhận, nhưng cũng ngay từ đầu, do một huyền nhiệm khủng khiếp, họ có thể từ chối! Không có khía cạnh nào của sứ điệp Ki-tô Giáo mà lại không phải là một phần câu trả lời cho câu hỏi về sự dữ.
310. 412, 1042-1050, 342
Nhưng tại sao Thiên Chúa lại không tạo dựng một trần gian thật hoàn hảo đến nỗi không thể có một sự dữ nào trong đó? Theo quyền năng vô biên của Ngài, Thiên Chúa luôn có thể tạo dựng được một thế giới tốt hơn.149 Nhưng trong sự khôn ngoan và lòng nhân hậu vô biên của Ngài, Thiên Chúa đã tự ý muốn dựng nên một trần gian “trong tình trạng lên đường” hướng về sự hoàn hảo cuối cùng của nó. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, quá trình này gồm có việc những vật này xuất hiện và những vật khác biến đi, có cái hoàn hảo hơn và có cái kém hơn, có xây đắp và cũng có tàn phá trong thiên nhiên. Như vậy, cùng với sự tốt lành thể lý, cũng có sự dữ thể lý, bao lâu công trình tạo dựng chưa đạt tới mức hoàn hảo của nó150.
311. 396, 1849
Các Thiên thần và các con người, là những thụ tạo thông minh và tự do, phải tiến về mục đích tối hậu của mình, nhờ sự lựa chọn tự do và yêu mến điều gì là ưu tiên. Vì vậy, họ có thể đi sai đường. Trong thực tế, họ đã phạm tội. Như vậy, sự dữ luân lý, vô cùng nghiêm trọng hơn so với sự dữ thể lý, đã xâm nhập vào trần gian. Thiên Chúa không bao giờ, bằng bất cứ cách nào, một cách trực tiếp hay gián tiếp, là nguyên nhân của sự dữ luân lý.151 Tuy nhiên, Ngài cho phép điều đó, vì tôn trọng sự tự do của thụ tạo của Ngài, và một cách bí nhiệm, Ngài biết từ sự dữ dẫn đưa tới điều thiện hảo:
“Quả thật, Thiên Chúa toàn năng tốt lành vô cùng, nên không bao giờ cho phép một sự dữ nào xảy ra trong các công trình của Ngài, nếu Ngài không toàn năng và tốt lành đến độ Ngài có thể hành động cách tốt đẹp từ sự dữ.”152
312. 598-600, 1994
Như vậy, với thời gian, chúng ta có thể nhận ra rằng: Thiên Chúa, trong sự quan phòng toàn năng của Ngài, có thể dẫn đưa tới điều thiện hảo từ những hậu quả của sự dữ, cho dù là sự dữ luân lý, do các thụ tạo của Ngài gây nên: “Không phải các anh đã gửi tôi đến đây, nhưng là Thiên Chúa… Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt để… cứu sống một dân đông đảo” (St 45,8; 50,20).153 Từ sự dữ luân lý lớn lao nhất người ta từng phạm, là việc khước từ và giết chết Con Thiên Chúa, sự dữ đó là do tội lỗi của tất cả mọi người gây nên, Thiên Chúa đã dẫn đưa tới điều thiện hảo cao trọng nhất, nhờ ân sủng chan chứa gấp bội của Ngài:154 Đức Ki-tô được tôn vinh và chúng ta được cứu chuộc. Tuy nhiên, không vì vậy mà sự dữ trở thành điều thiện hảo.
313. 227
“Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài” (Rm 8,28). Chứng từ của các Thánh không ngừng củng cố chân lý này.
Thánh Catarina Siêna nói với “những người bất bình và nổi dậy chống lại những gì xảy đến cho họ”: “Mọi sự được ban tặng bởi tình yêu và được quan phòng cho phần rỗi của con người, chứ không vì bất cứ mục đích nào khác.”155 Ngay trước khi chịu tử đạo, thánh Tô-ma More an ủi con gái mình: “Không gì có thể xảy ra mà không do Thiên Chúa muốn. Mà bất cứ điều gì Ngài muốn, thì dù đối với chúng ta có vẻ là sự dữ, nhưng thật ra đó là điều thiện hảo nhất.”156 Và bà Giuliana Norwich viết: “Nhờ ơn Chúa, tôi đã được dạy phải vững vàng gắn bó với đức tin… và tin một cách mạnh mẽ rằng mọi sự sẽ tốt đẹp… Chính bạn sẽ thấy là mọi sự sẽ tốt đẹp.”157
314. 1040, 2550
Chúng ta tin vững vàng rằng Thiên Chúa là Chúa của trần gian và của lịch sử. Nhưng thường chúng ta không biết được các đường lối của sự quan phòng của Ngài. Chỉ khi nào tới chung cuộc, lúc mà sự hiểu biết phiến diện của chúng ta kết thúc, khi chúng ta thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), chúng ta sẽ hiểu biết một cách trọn vẹn các đường lối này, mà qua đó, kể cả nhờ những thảm kịch của sự dữ và tội lỗi, Thiên Chúa dẫn đưa công trình tạo dựng của Ngài tới sự nghỉ ngơi của ngày Sabat158 chung cuộc, vì ngày đó mà Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất.
Tóm lược (315-324)
315. Thiên Chúa, trong công trình tạo dựng trần gian và con người, đã cho thấy chứng từ đầu tiên và phổ quát về tình yêu toàn năng và sự khôn ngoan của Ngài, đây là lời loan báo đầu tiên về “kế hoạch nhân hậu” của Ngài, một kế hoạch có mục đích là công trình tạo dựng mới trong Đức Ki-tô.
316. Tuy công trình tạo dựng được đặc biệt coi là của Chúa Cha, nhưng chân lý đức tin cũng dạy: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguyên lý duy nhất và không thể phân chia của công trình tạo dựng.
317. Một mình Thiên Chúa đã tạo dựng trần gian một cách tự do, trực tiếp, không hề có một sự trợ giúp nào.
318. Không một thụ tạo nào có quyền năng vô biên cần thiết để “tạo dựng” theo đúng nghĩa của từ này, nghĩa là, làm ra và cho hiện hữu điều gì trước đó không hề có (kêu gọi nó hiện hữu “từ hư vô”).159
319. Thiên Chúa đã tạo dựng trần gian để biểu lộ và truyền thông vinh quang của Ngài. Sự vinh quang mà vì đó Thiên Chúa đã tạo dựng các thụ tạo của Ngài, là để chúng được dự phần vào sự chân thiện mỹ của Ngài.
320. Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng trần gian, gìn giữ nó hiện hữu nhờ Ngôi Lời, là Con của Ngài, Đấng “dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1,3), và nhờ Thần Khí Sáng Tạo của Ngài, Đấng ban sự sống.
321. Sự quan phòng của Thiên Chúa là những sắp xếp nhờ đó Thiên Chúa, với sự khôn ngoan và tình yêu, dẫn đưa mọi thụ tạo của Ngài tới mục đích tối hậu của chúng.
322. Đức Ki-tô mời gọi chúng ta phó thác với tình con thảo vào sự quan phòng của Cha trên trời160, và thánh Tông Đồ Phê-rô nhắc lại: “Mọi âu lo, hãy trút cả cho Ngài, vì Ngài chăm sóc anh em” (1 Pr 5,7).161
323. Thiên Chúa quan phòng cũng hành động qua hành động của các thụ tạo. Thiên Chúa cho con người được cộng tác một cách tự do vào các kế hoạch của Ngài.
324. Việc Thiên Chúa cho phép có sự dữ thể lý và sự dữ luân lý là một mầu nhiệm mà Thiên Chúa làm sáng tỏ nhờ Con của Ngài là Chúa Giê-su Ki-tô, đã chết và đã sống lại để chiến thắng sự dữ. Đức tin giúp chúng ta xác tín rằng, Thiên Chúa đã không cho phép sự dữ xuất hiện, nếu Ngài không làm phát sinh điều thiện hảo từ chính sự dữ đó, bằng những đường lối mà chúng ta chỉ biết được trọn vẹn trong đời sống vĩnh cửu.
Chú thích
101 Tín biểu của các Tông Đồ: DS 30.
102 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.
103 Thánh bộ Giáo sĩ, Directorium catechisticum generale, 51: AAS 64 (1972) 128.
104 X. Rm 8,18-23.
105 X. Êgiêria, Itinerarium seu Peregrinatio ad loca sancta 46, 2: SC 296,308; PLS 1,1089-1090; Thánh Augustinô, De catechizandis rudibus 3, 5: CCL 46,124 (PL 40,313).
106 X. CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, De Revelatione, canon 1: DS 3026.
107 X. Cv 17,24-29; Rm 1,19-20.
108 X. Is 43,1.
109 X. St 15,5; Gr 33,19-26.
110 X. Is 44,24.
111 X. Tv 104.
112 X. Cn 8,22-31.
113 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.
114 Phụng vụ Byzantin, 2um Sticherum Vesperarum Dominicae Pentecostes: Pentekostarion (Rome 1883), 408.
115 X. Tv 33,6; 104,30; St 1,2-3.
116 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 2, 30, 9: SC 294,318-320 (PG 7,822).
117 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 20, 1: SC 100,626 (PG 7,1032).
118 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, De Deo rerum omnium Creatore, canon 5: DS 3025.
119 Thánh Bô-na-ven-tu-ra, In secundum librum Sententiarum, dist. 1, p. 2, a. 2, q. 1, concl.: Opera omnia, v. 2 (Ad Claras Aquas 1885) 44.
120 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Commentum in secundum librum Sententiarum, Prologus: Opera omnia, v. 8 (Paris 1873) 2.
121 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 1: DS 3002.
122 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 20, 7: SC 100,648 (PG 7,1037).
123 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 2: AAS 58 (1966) 948.
124 X. Kn 9,9.
125 X. CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c.1: DS 3002.
126 X. CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, De Deo rerum omnium Creatore, canones 1-4: DS 3023-3024.
127 CĐ La-tê-ra-nô IV, Cap. 2, De fide catholica: DS 800; CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, De Deo rerum omnium Creatore, canon 5: DS 3025.
128 Thánh Thê-ô-phi-lô thành An-ti-ô-khi-a, Ad Autolycum, 2, 4: SC 20,102 (PG 6,1052).
129 X. Tv 51,12.
130 X. St 1,3.
131 X. 2 Cr 4,6.
132 X. St 1,26.
133 X. Tv 19,2-5.
134 X. G 42,3.
135 X. Thánh Lê-ô Cả, Epistula Quam laudabiliter: DS 286; CĐ Bracarense I, Anathematismi praesertim contra Priscillianistas, 5-13: DS 455-463; CĐ La-tê-ra-nô IV, Cap. 2, De fide catholica: DS 800; CĐ Florentinô, Decretum pro Iacobitis: DS 1333; CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 1: DS 3002.
136 X. Hc 43,30.
137 Thánh Augustinô, Confessiones, 3, 6, 11: CCL 27,33 (PL 32,688).
138 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 1: DS 3003.
139 X. Is 10,5-15; 45,5-7; Đnl 32,39; Hc 11,14.
140 X. TV 22; 32; 35; 103; 138.
141 X. Mt 10,29-31.
142 X. St 1,26-28.
143 X. Cl 1,24.
144 X. 1 Tx 3,2.
145 X. Cl 4,11.
146 X. 1Cr 12,6.
147 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 36: AAS 58 (1966) 1054.
148 X. Mt 19,26; Ga 15,5; Pl 4,13.
149 X. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I, q. 25, a. 6: Ed. Leon. 4, 298-299.
150 X. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa contra gentiles, 3, 71: Ed. Leon. 14, 209-211.
151 X. Thánh Augustinô, De libero arbitrio, 1, 1, 1: CCL 29,211 (PL 32,1221-1223); Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I-II, q. 79, a. 1: Ed. Leon. 7, 76-77.
152 Thánh Augustinô, Enchiridion de fide, spe et caritate, 3, 11: CCL 46,53 (PL 40,236).
153 X. Tb 2,12-18 (bản Vulgata).
154 X. Rm 5,20.
155 Thánh Catarina thành Siêna, Il dialogo della Divina Provvidenza 138: Ed. G. Cavallini (Roma 1995) 441.
156 Margarita Roper, Epistola ad Aliciam Alington (tháng Tám 1534): The Correspondence of Sir Thomas More, ed. E.F. Rogers (Princeton 1947) 531-532.
157 Giuliana Norwich, Revelatio 13, 32: A Book of Showings to the Anchoress Julian of Norwich, ed. E. Colledge-J.Walsh, vol. 2 (Toronto 1978) 426 và 422.
158 X. St 2,2.
159 X. Sacra Congregatio Studiorum, Decretum (27 iulii 1914): DS 3624.
160 X. Mt 6,26-34.
161 X. Tv 55,23.
Tiết 5: Trời và đất (325-354)
325. Tín biểu của các Tông Đồ tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng “dựng nên trời đất”;162 và tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli giải thích thêm: “muôn vật hữu hình và vô hình.”163
326. 290, 1023, 2794
Trong Thánh Kinh, kiểu nói “trời đất” có nghĩa là tất cả những gì hiện hữu, là toàn bộ công trình tạo dựng. Kiểu nói này cũng nêu lên mối liên hệ, trong công trình tạo dựng, vừa kết hợp vừa phân biệt trời với đất: “Đất” là thế giới của con người.164 “Trời” hoặc “các tầng trời” có thể chỉ bầu trời,165 nhưng cũng có thể chỉ “nơi” riêng của Thiên Chúa, là Cha chúng ta, Đấng “ngự trên trời” (Mt 5,16);166 và do đó, “trời” cũng chỉ vinh quang cánh chung. Sau hết, “trời” chỉ “nơi” của các thụ tạo thiêng liêng – tức là các Thiên thần – là những vị hầu cận Thiên Chúa.
327. 296
Bản tuyên xưng đức tin của Công đồng Latêranô IV khẳng định: Thiên Chúa “ngay vào lúc khởi đầu thời gian, đã cùng một lúc tạo dựng từ hư vô cả hai loài thụ tạo, thiêng liêng và vật chất, nghĩa là Thiên thần và trần gian, và sau cùng là con người, được tạo dựng vừa tinh thần vừa thể xác.”167
I. Các Thiên thần (328-336)
Sự hiện hữu của các Thiên thần là một chân lý đức tin (328)
328. 150
Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng, không có thể xác, mà Thánh Kinh thường gọi là các Thiên thần, là một chân lý đức tin. Chứng từ của Thánh Kinh cũng rõ ràng như sự nhất trí của Thánh Truyền.
Các Thiên thần là ai? (329-330)
329. Thánh Augustinô nói về các vị đó: “‘Thiên thần’ là tên gọi chỉ chức vụ chứ không chỉ bản chất. Nếu bạn tìm tên gọi chỉ bản chất của vị này, thì đó là thiêng liêng; nếu bạn tìm tên chỉ chức vụ, thì đó là Thiên thần; vị ấy là gì, thì là thiêng liêng, vị ấy làm gì, thì là Thiên thần.”168 Các Thiên thần, tự bản thể, là những tôi tớ và sứ giả của Thiên Chúa. Vì các ngài “không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18,10), nên các ngài là những vị “thực hiện Lời Chúa, luôn sẵn sàng phụng lệnh Ngài” (Tv 103,20).
330. Vì là những thụ tạo hoàn toàn thiêng liêng, các Thiên thần có trí tuệ và ý chí: các ngài là những thụ tạo có ngôi vị,169 và bất tử.170 Các ngài trổi vượt hơn mọi thụ tạo hữu hình về mặt hoàn hảo. Vinh quang rực rỡ của các ngài minh chứng điều ấy.171
Đức Ki-tô “với tất cả các Thiên thần của Người” (331-333)
331. 291
Đức Ki-tô là trung tâm của thế giới Thiên thần. Các vị đều là sứ giả của Người: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu…” (Mt 25,31). Các Thiên thần là của Đức Ki-tô, bởi vì các vị ấy đã được tạo dựng nhờ Người và trong Người: “Vì trong Người, muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình, dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới. Tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1,16). Các vị còn thuộc về Người hơn nữa, bởi vì Người đã dùng các vị làm sứ giả của kế hoạch cứu độ của Người: “Nào tất cả các vị đó không phải là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?” (Dt 1,14).
332. Khởi từ lúc tạo dựng172 và suốt dòng lịch sử cứu độ, các Thiên thần có mặt để hoặc xa hoặc gần loan báo ơn cứu độ và phục vụ cho việc thực hiện ơn cứu độ theo kế hoạch của Thiên Chúa. Các Thiên thần đóng cửa vườn địa đàng,173 bảo vệ ông Lót,174 cứu bà Agar và con trai bà,175 chặn tay ông Áp-ra-ham.176 Lề Luật được truyền thông qua thừa tác vụ của các Thiên thần,177 các ngài hướng dẫn dân Chúa,178 loan báo những cuộc chào đời,179 và những ơn kêu gọi,180 trợ giúp các Tiên tri,181 đó là chúng ta chỉ nêu lên một số thí dụ. Cuối cùng, thiên thần Gáp-ri-en loan báo việc chào đời của vị Tiền hô và của chính Chúa Giê-su.182
333. 559
Từ cuộc Nhập Thể cho tới cuộc Thăng Thiên, cuộc đời của Ngôi Lời nhập thể được hầu cận bằng sự tôn thờ và phục vụ của các Thiên thần. “Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa nói: ‘Mọi Thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người’” (Dt 1,6). Ca khúc ngợi khen của các Thiên thần khi Đức Ki-tô giáng sinh không ngừng vang vọng trong lời ca tụng của Hội Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa…” (Lc 2,14). Các Thiên thần bảo vệ Chúa Giê-su khi Người còn thơ ấu,183 phục vụ Người trong hoang địa,184 an ủi Người trong cơn hấp hối,185 khi Người đã có thể được các vị cứu khỏi tay kẻ thù,186 như dân Ít-ra-en xưa.187 Các Thiên thần cũng rao giảng Tin Mừng,188 khi loan báo Tin Mừng về việc Nhập Thể189 và về việc Phục Sinh của Đức Ki-tô.190 Các ngài loan báo việc Đức Ki-tô lại đến,191 và khi Người đến, các ngài sẽ có mặt để phục vụ việc xét xử của Người.192
Các Thiên thần trong đời sống Hội Thánh (334-336)
334. 1939
Từ đó, toàn bộ đời sống Hội Thánh hưởng nhờ sự trợ giúp bí nhiệm và đầy uy quyền của các Thiên thần.193
335. 1138
Trong phụng vụ, Hội Thánh kết hợp mình với các Thiên thần để tôn thờ Thiên Chúa ba lần thánh;194 Hội Thánh khẩn cầu các Thiên thần trợ giúp (như trong kinh In Paradisum deducant te angeli, Xin các Thiên thần Chúa dẫn đưa bạn về thiên đàng của phụng vụ cầu cho các tín hữu qua đời,195 hoặc trong “Thánh thi Cherubim” của phụng vụ Byzantin196); đặc biệt hơn, Hội Thánh cử hành việc kính nhớ một số Thiên thần (thánh Mi-ca-en, thánh Gáp-ri-en, thánh Ra-pha-en, các Thiên thần Hộ thủ).
336. 1020
Cuộc đời con người, từ lúc khởi đầu197 cho đến lúc chết,198 đều được bao bọc bằng sự bảo vệ199 và lời chuyển cầu200 của các Thiên thần. “Bên cạnh mỗi tín hữu đều có một Thiên thần làm Đấng bảo trợ và mục tử, hướng dẫn họ đến sự sống.”201 Đời sống Ki-tô hữu, ngay tại trần gian này, đã được tham dự trong đức tin vào cộng đoàn vinh phúc của các Thiên thần và của những người đã được hợp nhất trong Thiên Chúa.
II. Thế giới hữu hình (337-349)
337. 290, 293
Chính Thiên Chúa đã tạo dựng thế giới hữu hình trong toàn bộ sự phong phú, đa dạng và trật tự của nó. Thánh Kinh trình bày công trình của Đấng Tạo hóa một cách biểu tượng như một chuỗi sáu ngày “làm việc” của Thiên Chúa, kết thúc với sự “nghỉ ngơi” vào ngày thứ bảy.202 Liên quan đến công trình tạo dựng, Thánh Kinh dạy những chân lý đã được Thiên Chúa mặc khải vì ơn cứu độ chúng ta,203 giúp chúng ta “nhận ra bản chất sâu xa, giá trị và trật tự của toàn thể thụ tạo để ca ngợi Thiên Chúa.”204
338. 297
Không có gì hiện hữu mà không mắc nợ Thiên Chúa Tạo hóa về sự hiện hữu của mình. Trần gian bắt đầu khi nó được dựng nên từ hư vô nhờ Lời Thiên Chúa. Tất cả mọi hữu thể hiện hữu, toàn bộ thiên nhiên, toàn bộ lịch sử nhân loại đều bắt nguồn từ biến cố đầu tiên đó: quả vậy, đây là khởi điểm, qua đó trần gian được hình thành và bắt đầu thời gian.205
339. 2501, 299, 266
Mỗi thụ tạo đều có sự tốt lành và hoàn hảo riêng của nó. Về mỗi công trình của “sáu ngày”, Sách Thánh đều viết: “Và Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.” “Chính nhờ việc tạo dựng, mà mọi sự vật được thiết lập với sự bền vững, chân thật và tốt lành riêng, và theo những định luật và trật tự riêng.”206 Các thụ tạo khác nhau, trong bản chất riêng của mình, mỗi thụ tạo một cách, đều phản chiếu một tia sáng của sự khôn ngoan vô biên và sự tốt lành vô biên của Thiên Chúa. Chính vì vậy, con người phải tôn trọng sự tốt lành riêng của từng thụ tạo, tránh không sử dụng các sự vật một cách vô trật tự, vì làm như vậy là coi thường Đấng Tạo Hóa và kéo theo những hậu quả nguy hại cho con người và cho môi trường của con người.
Bài này đã được xem 5736 lần!