GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

340. 1937

Thiên Chúa muốn các thụ tạo lệ thuộc lẫn nhau. Mặt trời, mặt trăng, cây sến và bông hoa nhỏ, phượng hoàng và chim sẻ: cảnh thiên hình vạn trạng của các sự vật lớn nhỏ khác nhau nói lên rằng không thụ tạo nào có thể tự túc. Chúng chỉ hiện hữu trong sự lệ thuộc lẫn nhau, để bổ túc cho nhau trong việc phục vụ lẫn nhau.

341. 283, 2500

Vẻ đẹp của trần gian: Trật tự và sự hài hòa của thế giới thụ tạo là kết quả do sự đa dạng của các sự vật và sự đa dạng của các liên hệ giữa chúng với nhau. Con người dần dần khám phá ra các mối liên hệ ấy như các định luật của thiên nhiên. Chúng khiến cho các nhà bác học phải thán phục. Vẻ đẹp của công trình tạo dựng phản chiếu vẻ đẹp vô biên của Đấng Tạo Hóa. Vẻ đẹp này phải gợi lên nơi trí tuệ và ý chí con người sự tôn kính và quy phục.

342. 310

Phẩm trật các thụ tạo được diễn tả qua thứ tự “sáu ngày”, từ bậc kém hoàn hảo tới bậc hoàn hảo hơn. Thiên Chúa yêu thương tất cả các thụ tạo của Ngài,207 và chăm sóc chúng, cả đến những con chim sẻ. Tuy nhiên, Chúa Giê-su nói: “Anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Lc 12,6-7), hoặc chỗ khác: “Người thì quý hơn chiên biết mấy!” (Mt 12,12).

343. 355

Con người là tột đỉnh của công trình tạo dựng. Trình thuật của Sách Thánh diễn tả điều này khi phân biệt rõ ràng việc tạo dựng loài người với việc tạo dựng các loài khác.208

344. 293, 1939, 2416, 1218

Có sự liên đới với nhau giữa mọi thụ tạo vì tất cả đều có chung một Đấng Tạo Hóa, và tất cả đều quy hướng về vinh quang của Ngài:

“Chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con, cùng với tất cả các thụ tạo của Chúa, đặc biệt là với anh Mặt Trời, anh ấy là ngày, và Chúa dùng anh ấy để soi sáng chúng con. Anh ấy đẹp và tỏa chiếu ánh huy hoàng rực rỡ; anh ấy là một tín hiệu chỉ về Chúa, lạy Đấng Tối Cao…
Chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con, vì chị Nước, chị ấy hữu ích và khiêm nhường, quý giá và thanh khiết…
Chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con, vì chị Đất là mẹ chúng con, mẹ nâng đỡ và quản lý chúng con, mẹ sản xuất đủ loại trái cây, với muôn hoa sặc sỡ và cây cỏ…
Các bạn hãy chúc tụng và ngợi khen Chúa của tôi, hãy tạ ơn và hết sức khiêm tốn phục vụ Ngài.”209

345. 2168

Ngày sa-bát kết thúc “sáu ngày” làm việc. Sách Thánh nói: “Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Ngài làm”, và như vậy, “trời đất đã hoàn tất”; và ngày thứ bảy Thiên Chúa “nghỉ ngơi”, Ngài “ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày đó” (St 2,1-3). Những lời được linh hứng này chứa đựng rất nhiều giáo huấn bổ ích.

346. 2169

Trong công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã đặt một nền móng và những định luật vững bền,210 tín hữu có thể dựa vào đó một cách tin tưởng. Chúng sẽ là dấu chỉ và bảo chứng của sự trung thành không hề lay chuyển của Giao Ước của Thiên Chúa.211 Về phần mình, con người phải trung thành với nền móng này và tôn trọng những định luật mà Đấng Tạo hóa đã khắc ghi trên đó.

347. 1145-1152

Công trình tạo dựng đã được thực hiện hướng về ngày sa-bát, tức là hướng đến việc phụng tự và tôn thờ Thiên Chúa. Việc phụng tự đã được khắc ghi trong trật tự của công trình tạo dựng.212 Luật dòng thánh Bênêđictô dạy: “Không được đặt việc gì lên trên việc thờ phượng Thiên Chúa”,213 như vậy là nêu rõ trật tự đúng đắn cho những điều con người phải quan tâm.

348. 2172

Ngày sa-bát nằm ở trung tâm của Lề Luật Ít-ra-en. Tuân giữ các giới răn là sống phù hợp với sự khôn ngoan và ý muốn của Thiên Chúa đã được diễn tả trong công trình tạo dựng của Ngài.

349. 2174, 1046

Ngày thứ tám. Nhưng đối với chúng ta, đã bừng lên một ngày mới: ngày Đức Ki-tô sống lại. Ngày thứ bảy hoàn tất công trình tạo dựng thứ nhất. Ngày thứ tám khởi đầu một công trình tạo dựng mới. Như vậy, công trình tạo dựng đạt tới tột đỉnh nơi công trình cao cả nhất, là công trình Cứu chuộc. Công trình tạo dựng thứ nhất gặp được ý nghĩa và tột đỉnh của nó trong công trình tạo dựng mới nơi Đức Ki-tô, sự huy hoàng của cuộc tạo dựng mới này vượt xa sự huy hoàng của cuộc tạo dựng thứ nhất.214

Tóm lược (350-354)

350. Thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, không ngừng tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ các kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đối với các thụ tạo khác: “Các Thiên thần cộng tác vào mọi điều thiện hảo của chúng ta.”215

351. Các Thiên thần hầu cận Đức Ki-tô, là Chúa của mình. Các ngài phục vụ Người, đặc biệt trong việc thực hiện sứ vụ cứu độ của Người đối với nhân loại.

352. Hội Thánh tôn kính các Thiên thần, là những vị trợ giúp Hội Thánh trong cuộc lữ hành trần thế, và là những vị bảo vệ mọi hữu thể nhân linh.

353. Thiên Chúa đã muốn các thụ tạo của Ngài có sự đa dạng, mỗi loài có sự tốt lành riêng, tất cả lệ thuộc lẫn nhau và tuân theo trật tự của mình. Ngài đã định cho tất cả các thụ tạo vật chất phục vụ cho lợi ích của nhân loại. Con người, và nhờ họ, toàn bộ công trình tạo dựng, đều được quy hướng về vinh quang Thiên Chúa.

354. Tôn trọng những lề luật đã được khắc ghi trong công trình tạo dựng và những mối tương quan xuất phát từ bản chất của mọi vật, là một nguyên tắc khôn ngoan và là một nền tảng của luân lý.


Chú thích

162 DS 30.

163 DS 150.

164 X. Tv 115,16.

165 X. 19,2.

166 X. Tv 115,16.

167 CĐ La-tê-ra-nô IV, Cap. I, De Fide catholica: DS 800; CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 1: DS 3002; ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 8: AAS 60 (1968) 436.

168 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 103, 1, 15: CCL 40,1488 (PL 37,1348-1349).

169 X. ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Humani generis: DS 3891.

170 X. Lc 20,36.

171 X. Đn 10,9-12.

172 X. G 38,7.

173 X. St 3,24.

174 X. St 19.

175 X. St 21,17.

176 X. St 22,11.

177 X. Cv 7,53.

178 X. Xh 23,20-23.

179 X. Tl 13.

180 X. Tl 6,11-24; Is 6,6.

181 X. 1 V 19,5.

182 X. Lc 1,11.26.

183 X. Mt 1,20; 2,13.19.

184 X. Mc 1,13; Mt 4,11.

185 X. Lc 22,43.

186 X. Mt 26,53.

187 X. 2 Mcb 10,29-30; 11,8.

188 X. Lc 2,10.

189 X. Lc 2,8-14.

190 X. Mc 16,5-7.

191 X. Cv 1,10-11.

192 X. Mt 13,41; 24,31; Lc 12,8-9.

193 X. Cv 5,18-20; 8,26-29; 10,3-8; 12,6-11; 27,23-25.

194 X. Kinh “Thánh, Thánh, Thánh”: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 392.

195 Nghi thức an táng, 50, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1969) 23.

196 Liturgia Byzantina sancti Ioannis Chrysotomi, Hymnus cherubinorum: Liturgies Eastern and Western, ed. F.E. Brightman (Oxford 1896) 377.

197 X. Mt 18,10.

198 X. Lc 16,22.

199 X. Tv 34,8; 91,10-13.

200 X. G 33,23-24; Dc 1,12; Tb 12,12.

201 Thánh Ba-si-li-ô, Adversus Eunomium, 3, 1: SC 305,148 (PG 29,656).

202 X. St 1,1-2,4.

203 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 823.

204 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 36: AAS 57 (1965) 41.

205 X. Thánh Augustinô, De Genesi contra Manichaeos, 1, 2, 4: PL 36,175.

206 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 36: AAS 58 (1966) 1054.

207 X. Tv 145,9.

208 X. St 1,26.

209 Thánh Phan-xi-cô Assisi, Canticum Fratris Solis: Opuscula sancti Patris Francisci Assisiensis, ed. C. Esser (Grottaferrata 1978) 84-86.

210 X. Dt 4,3-4.

211 X. Gr 31,35-37; 33,19-26.

212 X. St 1,14.

213 Thánh Bê-nê-đích-tô, Regula, 43, 3: CSEL 75,106 (PL 66,675).

214 X. Canh thức Vượt qua, Lời nguyện sau bài đọc thứ nhất: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 276.

215 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I, 114, 3, ad 3: Ed. Leon. 5, 535.

 

Tiết 6: Con người (355-384)

355. 1700, 343

“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình; Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Con người có một địa vị độc tôn trong công trình tạo dựng: con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (I); trong bản tính riêng của mình, con người kết hợp thế giới thiêng liêng và thế giới vật chất (II); con người được tạo dựng “có nam có nữ” (III); Thiên Chúa cho con người sống thân mật với Ngài (IV).

I. “Theo hình ảnh của Thiên Chúa” (356-361)

356. 1703, 2258, 225, 295

Trong tất cả các thụ tạo hữu hình, chỉ con người có khả năng “nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Hóa của mình”;216 là “thụ tạo duy nhất trên trái đất Thiên Chúa dựng nên vì chính họ”;217 chỉ con người được kêu gọi tham dự vào sự sống của Thiên Chúa, bằng sự nhận biết và tình yêu. Con người được tạo dựng vì mục đích ấy, và đó là lý do căn bản của phẩm giá con người:

“Vì lý do nào Chúa đã đặt con người vào một phẩm giá cao trọng như vậy? Chính tình yêu khôn tả đã khiến Chúa nhìn đến thụ tạo của Chúa nơi chính Chúa, Chúa đã ‘say mê’ nó; vì tình yêu Chúa đã dựng nên nó, vì tình yêu Chúa đã cho nó hiện hữu, để nó nếm được sự Tốt lành vĩnh cửu của Chúa.”218

357. 1935, 1877

Mỗi cá nhân con người, bởi vì được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên có phẩm giá của một ngôi vị: không chỉ là một sự vật nào đó, nhưng là một ai đó. Con người có khả năng nhận thức về bản thân mình, làm chủ mình, tự hiến mình cách tự do và đi vào sự hiệp thông với những ngôi vị khác; nhờ ân sủng, mỗi nguời được kêu gọi vào Giao ước với Đấng Tạo Hóa của mình, để dâng lên Ngài một lời đáp lại của đức tin và tình yêu, mà không ai khác có thể thay thế chỗ của mình được.

358. 299, 901

Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự cho con người;219 còn con người được tạo dựng để phục vụ Thiên Chúa và yêu mến Ngài và dâng lên Ngài toàn thể thụ tạo:

“Vậy ai được tạo dựng sau cùng và được vinh dự dường ấy? Thưa đó là con người, một sinh vật cao cả và kỳ diệu, và đối với Thiên Chúa, nó quý giá hơn mọi thụ tạo; vì con người mà trời, đất, biển và toàn thể thụ tạo được hiện hữu: Thiên Chúa đã tha thiết muốn cứu độ con người, đến nỗi đã không buông tha Con Một của Ngài vì họ: Thiên Chúa cũng không ngừng vận dụng mọi cách để nâng con người lên đặt ở bên hữu Ngài.”220

359. 1701, 388, 411

“Quả thật, chỉ trong mầu nhiệm của Ngôi Lời Nhập Thể, mà mầu nhiệm về con người mới thật sự được sáng tỏ”:221

“Thánh Phao-lô cho chúng ta biết có hai người là nguồn gốc của nhân loại, là ông A-đam và Đức Ki-tô… A-đam đầu tiên được tạo dựng là một người lãnh nhận sự sống. Còn A-đam cuối cùng là Đấng thiêng liêng ban sự sống. Người đầu tiên được tạo dựng bởi Đấng cuối cùng, do Đấng này, người đầu tiên lãnh nhận linh hồn để được sống… Khi tạo dựng A-đam đầu tiên, A-đam cuối cùng đã khắc ghi hình ảnh mình trong đó. Từ đó A-đam cuối cùng đã nhận lấy vai trò và tên gọi của A-đam đầu tiên, để không bỏ mất những gì đã được tạo dựng theo hình ảnh của mình. A-đam đầu tiên, A-đam cuối cùng: A-đam đầu tiên có khởi đầu, A-đam cuối cùng không có kết thúc, bởi vì Đấng cuối cùng này mới thật sự là Đấng đầu tiên, như chính Người đã nói: ‘Ta là Đầu và là Cuối’.”222

360. 225, 404, 775, 831, 842

Vì cùng xuất phát từ một nguồn gốc chung, tất cả mọi người làm thành một loài người duy nhất. “Từ một người duy nhất, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại” (Cv 17,26):223

“Cái nhìn kỳ diệu khiến chúng ta có thể chiêm ngắm nhân loại trong sự thống nhất vì cùng có chung một nguồn gốc bởi Đấng Tạo Hóa; trong sự thống nhất về bản tính vì mọi người đều được tạo dựng như nhau, gồm một thân xác vật chất và một linh hồn thiêng liêng bất tử; trong sự thống nhất về mục đích mà mọi người cùng theo đuổi, về nhiệm vụ phải đảm nhận trong cuộc sống này; trong sự thống nhất về nơi cư ngụ là trái đất với những tài nguyên, mà mọi người, do quyền tự nhiên của mình, đều có quyền sử dụng để nuôi dưỡng và phát triển sự sống; sau cùng, trong sự thống nhất về cùng đích siêu nhiên, là chính Thiên Chúa, Đấng mà tất cả đều phải quy hướng về; trong sự thống nhất về những phương thế để đạt tới cùng đích đó; trong sự thống nhất về ơn Cứu chuộc mà Đức Ki-tô đã thực hiện cho mọi người.”224

361. 1939

Quy luật “của sự con người cần đến nhau và của đức mến”,225 bảo đảm cho chúng ta rằng mọi người thật sự đều là anh em, tuy không loại trừ sự khác biệt rất nhiều giữa các cá nhân, các nền văn hóa, và các dân tộc.

II. “Một hữu thể có xác có hồn” (362-368)

362. 1146, 2332

Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người là một hữu thể vừa có yếu tố thể xác lại vừa có yếu tố tinh thần. Trình thuật Thánh Kinh diễn tả thực tại đó bằng một ngôn ngữ biểu tượng khi khẳng định rằng “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy, con người toàn diện được dựng nên do ý muốn của Thiên Chúa.

363. 1703

Trong Thánh Kinh, từ linh hồn thường chỉ sự sống con người226 hoặc toàn bộ nhân vị.227 Nhưng từ đó cũng dùng để chỉ cái thâm sâu nhất trong con người,228 giá trị nhất trong con người,229 nhờ đó con người là hình ảnh của Thiên Chúa một cách đặc biệt hơn: “linh hồn” là nguyên lý tinh thần trong con người.

364. 1004, 2289

Thân xác của con người được dự phần vào phẩm giá là “hình ảnh của Thiên Chúa”: nó là thân xác nhân linh (corpus humanum) chính vì được linh hồn thiêng liêng làm cho sinh động, và toàn bộ nhân vị được đặt định trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần, trong Thân Thể Đức Ki-tô.230

“Là một thực thể có xác có hồn, con người, nhờ chính điều kiện có xác của mình, quy tụ nơi mình những yếu tố của thế giới vật chất, cho nên, nhờ con người, các yếu tố ấy đạt tới tuyệt đỉnh của chúng và có thể tự do dâng lời ca ngợi Đấng Tạo Hóa. Vì vậy, con người không được khinh miệt sự sống thể xác, nhưng trái lại, con người phải coi thân xác mình là tốt đẹp và đáng tôn trọng vì thân xác ấy do Thiên Chúa tạo dựng và sẽ được sống lại trong ngày sau hết.”231

365. Sự thống nhất xác hồn thâm sâu đến độ linh hồn phải được coi là “mô thể” của thân xác;232 nghĩa là, nhờ linh hồn thiêng liêng mà thân xác, vốn được cấu tạo bằng vật chất, là một thân xác nhân linh (corpus humanum) và sống động; tinh thần và vật chất nơi con người không phải là hai bản tính được nối kết lại, nhưng sự kết hợp của chúng tạo thành một bản tính duy nhất.

366. 1005, 997

Hội Thánh dạy rằng mỗi linh hồn thiêng liêng được tạo dựng trực tiếp bởi Thiên Chúa233 chứ không phải do cha mẹ “sinh sản”; Hội Thánh cũng dạy chúng ta rằng, linh hồn thì bất tử;234 linh hồn không hư hoại khi lìa khỏi xác trong giờ chết, và sẽ tái hợp với thân xác trong ngày sống lại sau hết.

367. 2083

Đôi khi linh hồn được phân biệt với tinh thần. Chẳng hạn thánh Phao-lô cầu nguyện để trọn con người chúng ta: “tinh thần, linh hồn và thân xác” được gìn giữ, “không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1 Tx 5,23). Hội Thánh dạy rằng sự phân biệt này không đem lại sự nhị phân trong linh hồn.235 Từ “tinh thần” muốn nói là con người, ngay từ khi được tạo dựng, đã được quy hướng về cùng đích siêu nhiên của mình,236 và linh hồn của con người có khả năng được nâng lên cách nhưng không để hiệp thông với Thiên Chúa.237

368. 478, 582, 1431, 1764, 2517, 2562, 2843

Truyền thống linh đạo của Hội Thánh cũng nhấn mạnh đến trái tim, mà theo ý nghĩa của Thánh Kinh, là nơi “thâm sâu thân mật” (“trong đáy lòng”: Gr 31,33), đó là nơi con người quyết định theo hoặc không theo Thiên Chúa.238

III. “Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ” (369-373)

Thiên Chúa muốn con người bình đẳng nhưng khác biệt nhau (369-370) [2331-2336]

369. Người nam và người nữ được tạo dựng, nghĩa là họ hiện hữu do ý muốn của Thiên Chúa: một đàng, họ hoàn toàn bình đẳng với tư cách là những nhân vị; đàng khác, họ là nam và là nữ theo cách hiện hữu riêng. “Là người nam”, “là người nữ”, đều là thực tại tốt lành do ý muốn của Thiên Chúa: người nam và người nữ có một phẩm giá không thể mất được, do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, trực tiếp ban cho họ.239 Người nam và người nữ, với cùng một phẩm giá, đều là “hình ảnh của Thiên Chúa.” “Là người nam” hay “là người nữ”, họ đều phản ánh sự khôn ngoan và lòng nhân hậu của Đấng Tạo Hóa.

370. 42, 239

Đừng diễn tả Thiên Chúa theo hình ảnh loài người. Ngài không là nam, cũng không là nữ. Thiên Chúa là thuần túy thiêng liêng, trong tính thiêng liêng đó không có chỗ cho sự phân biệt phái tính. Nhưng “những nét hoàn hảo” của người nam và người nữ phản ánh một chút nào đó sự trọn hảo vô biên của Thiên Chúa: những hoàn hảo của người mẹ,240 của người cha và người chồng241 cũng vậy.

“Cho nhau” – “Tuy hai mà một” (371-373)

371. 1605

Người nam và người nữ, được tạo dựng đồng thời, được Thiên Chúa muốn là người này phải sống cho người kia. Lời Chúa muốn chúng ta hiểu điều đó qua nhiều câu Thánh Kinh: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2,18). Không một con vật nào có thể là “tương xứng” với con người.242 Thiên Chúa lấy xương sườn người nam tạo thành người nữ và dẫn đến cho người nam; vừa trông thấy người nữ, người nam phải thốt lên một tiếng thán phục, một lời reo mừng của tình yêu và của sự hiệp thông: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2,23). Người nam nhận ra người nữ như một “cái tôi” khác của cùng bản tính nhân loại.

372. 1652, 2366

Người nam, và người nữ được tạo dựng “người này cho người kia”: không phải Thiên Chúa đã tạo dựng họ “chỉ có một nửa” và “không đầy đủ”; Thiên Chúa đã tạo dựng họ để họ hiệp thông các ngôi vị, trong đó mỗi người có thể thành “sự trợ giúp” cho người kia, bởi vì một đàng, họ là những nhân vị bình đẳng với nhau (“xương bởi xương tôi…”) và đàng khác, là người nam và là người nữ, họ bổ túc cho nhau.243 Trong hôn nhân, Thiên Chúa đã kết hợp họ đến độ, một khi nên “một xương một thịt” (St 2,24), họ có thể lưu truyền sự sống con người: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1,28). Người nam và người nữ, với tư cách là đôi vợ chồng và cha mẹ, khi lưu truyền sự sống con người cho dòng dõi mình, một cách độc đáo, cộng tác vào công trình của Đấng Tạo Hóa.244

373. 307, 2415

Trong kế hoạch của Thiên Chúa, người nam và người nữ có ơn gọi để làm chủ trái đất245 với tư cách là “những người quản lý” của Thiên Chúa. Quyền làm chủ này không được trở thành một sự thống trị độc đoán và phá hoại. Vì là hình ảnh của Đấng Tạo Hóa, “Đấng yêu thương mọi loài hiện hữu” (Kn 11,24), người nam và người nữ được kêu gọi tham dự vào sự quan phòng của Thiên Chúa đối với các thụ tạo khác. Do đó, họ có trách nhiệm về trần gian mà Thiên Chúa đã giao phó cho họ.

Bài này đã được xem 5629 lần!

Pages ( 14 of 96 ): <1 ... 1213 14 1516 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]