GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

406. Giáo lý của Hội Thánh về sự lưu truyền tội tổ tông đã được xác định cách đặc biệt vào thế kỷ V, chủ yếu là dưới ảnh hưởng sự quan tâm của thánh Augustinô chống lại chủ thuyết của ông Pêlagiô, và vào thế kỷ XVI, chống lại cuộc Cải Cách của những người thệ phản. Ông Pêlagiô chủ trương rằng, bằng sức mạnh tự nhiên của ý chí tự do, không cần sự trợ giúp của ân sủng, con người vẫn có thể sống tốt lành về mặt luân lý; như vậy, ông này giản lược ảnh hưởng của tội A-đam thành ảnh hưởng của một gương xấu. Trái lại, những nhà Cải Cách thệ phản đầu tiên chủ trương rằng, vì tội tổ tông, con người đã bị hư hỏng hoàn toàn và con người không còn sự tự do; họ đồng hóa tội mà mỗi người lãnh nhận do lưu truyền với sự nghiêng chiều về sự dữ (dục vọng), một sự nghiêng chiều không thể cưỡng lại được. Hội Thánh đã tuyên bố về ý nghĩa của mặc khải liên quan đến tội tổ tông, đặc biệt tại Công đồng Arausicanô II năm 529,297 và tại Công đồng Tri-đen-ti-nô năm 1546.298

Một cuộc chiến cam go… (407-409)

407. 2015, 2852, 1888

Giáo lý về tội tổ tông, gắn liền với giáo lý về ơn Cứu chuộc nhờ Đức Ki-tô, mang lại cho ta một cái nhìn để phân định sáng suốt về tình trạng của con người và hành động của họ ở trần gian. Vì tội tổ tông, ma quỷ đã có được một quyền thống trị nào đó trên con người, mặc dầu con người vẫn còn tự do. Tội tổ tông khiến con người “bị cầm giữ dưới quyền của kẻ nắm quyền thống trị của sự chết, tức là ma quỷ.”299 Nếu không biết rằng bản tính nhân loại đã bị tổn thương, bị nghiêng chiều về sự dữ, người ta có thể mắc những sai lầm nghiêm trọng trong các lãnh vực giáo dục, chính trị, hoạt động xã hội300 và luân lý.

408. 1865

Các hậu quả của tội tổ tông và của tất cả các tội cá nhân của con người đã đưa trần gian, trong tổng thể của nó, vào một tình trạng tội lỗi mà thánh Gio-an đã gọi bằng kiểu nói: “tội trần gian” (Ga 1,29). Kiểu nói này cũng được dùng để nêu lên ảnh hưởng tiêu cực mà các thỏa thuận tập thể và các cơ cấu xã hội, là hoa trái của tội lỗi con người, áp đặt lên các nhân vị.301

409. 2516

Hoàn cảnh bi đát như vậy của trần gian, đang “nằm dưới ách thống trị của Ác thần” (1 Ga 5,19)302 làm cho đời sống con người trở thành một cuộc chiến đấu:

“Toàn bộ lịch sử của nhân loại là lịch sử của cuộc chiến cam go chống lại quyền lực của sự dữ, khởi đầu ngay từ lúc bình minh của lịch sử và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng như lời Chúa phán. Nằm giữa cuộc chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với điều thiện hảo và chỉ sau khi hết sức cố gắng và với sự trợ giúp của ơn Chúa, con người mới đạt được sự thống nhất nội tâm.”303

IV. “Cha đã không bỏ mặc con người dưới quyền lực sự chết” (410-412)

410. 55, 705, 1609, 2568, 675

Sau khi sa ngã, con người không bị Thiên Chúa bỏ rơi. Trái lại, Thiên Chúa gọi con người304 và, một cách bí nhiệm, loan báo cho con người cuộc chiến thắng trên sự dữ và việc nâng con người sa ngã dậy.305 Đoạn này trong sách Sáng Thế được gọi là “Tiền Tin Mừng” bởi vì đó là lời loan báo đầu tiên về Đấng Mê-si-a Cứu Chuộc, về cuộc chiến đấu giữa con rắn và Người Nữ, và về chiến thắng chung cuộc của một hậu duệ Người Nữ này.

411. 359, 615, 491

Truyền thống Ki-tô Giáo nhận ra trong đoạn này lời tiên báo một vị “A-đam mới”,306 Đấng đã lấy sự “vâng lời cho đến chết… trên thập giá” (Pl 2,8) của mình, mà sửa lại một cách đầy tràn chan chứa tội bất tuân của ông A-đam.307 Đàng khác, nơi Người Nữ được tiên báo trong Tiền Tin Mừng, nhiều Giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh nhận ra Đức Ma-ri-a, Mẹ Đức Ki-tô, như là một bà “E-và mới.” Đức Ma-ri-a là người đầu tiên và theo một cách thế độc nhất vô nhị, được thừa hưởng chiến thắng của Đức Ki-tô trên tội lỗi: Bà được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ của tội tổ tông308 và trong suốt cuộc đời trần thế của mình, nhờ ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa, Bà đã không hề phạm một tội nào.309

412. 310, 395, 272, 1994

Nhưng tại sao Thiên Chúa không ngăn cản con người đầu tiên phạm tội? Thánh Lêô Cả trả lời: “Điều chúng ta nhận được nhờ ân sủng khôn tả của Đức Ki-tô cao cả hơn điều chúng ta bị mất vì sự ghen tương của ma quỷ.”310 Và thánh Tô-ma Aquinô nói: “Không có gì ngăn cản bản tính loài người, sau tội lỗi, lại được nâng lên một mức cao hơn: thật vậy, Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra để từ đó Ngài rút ra một điều thiện hảo hơn. Do đó, thánh Phao-lô đã nói trong Rm 5,20: ‘Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội’; và do đó, trong bài Công bố Tin Mừng Phục Sinh có câu: ‘Ôi tội hồng phúc (felix culpa), nhờ có tội, ta mới có được Đấng Cứu Chuộc cao cả dường này!’.”311

Tóm lược (413-421)

413. “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong… Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 1,13; 2,24).

414. Xa-tan hoặc ma quỷ và các ác thần khác là những thiên thần sa ngã bởi vì chúng đã tự do khước từ phục vụ Thiên Chúa và kế hoạch của Ngài. Lựa chọn của chúng là một lựa chọn dứt khoát chống lại Thiên Chúa. Chúng ra sức lôi kéo con người vào cuộc nổi loạn của chúng chống lại Thiên Chúa.

415. “Được Thiên Chúa dựng nên trong tình trạng công chính, nhưng con người, bị ma quỷ dụ dỗ, ngay từ khởi đầu lịch sử, đã lạm dụng sự tự do của mình, nâng mình lên chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới cứu cánh của mình ngoài Thiên Chúa.”312

416. Ông A-đam, với tư cách là con người đầu tiên, vì tội của mình, đã đánh mất sự thánh thiện và công chính nguyên thủy mà ông đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, không phải cho riêng mình ông nhưng cho tất cả mọi người.

417. Vì tội đầu tiên của họ, ông A-đam và bà E-và đã lưu truyền cho hậu duệ một bản tính nhân loại đã bị thương tật, nên đã mất đi sự thánh thiện và sự công chính nguyên thủy. Sự mất mát đó được gọi là “tội tổ tông.”

418. Hậu quả của tội tổ tông là bản tính nhân loại bị suy yếu trong các sức lực tự nhiên của mình, u mê dốt nát, phải đau khổ, bị sự chết thống trị và hướng chiều về tội lỗi (sự hướng chiều này được gọi là “dục vọng”).

419. “Cùng với Công đồng Tri-đen-ti-nô, chúng tôi xác quyết rằng tội tổ tông được lưu truyền lại cùng với bản tính loài người, ‘không phải do bắt chước, nhưng qua truyền sinh’ và tội ấy ‘thuộc về riêng mỗi người’.”313

420. Chiến thắng của Đức Ki-tô trên tội lỗi đã ban cho chúng ta những điều thiện hảo cao quý hơn những gì tội lỗi đã lấy mất của chúng ta: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).

421. “Các Ki-tô hữu tin rằng trần gian này đã được dựng nên và bảo tồn bởi tình yêu của Đấng Tạo Hóa, quả thật nó đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng đã được giải thoát bởi Đức Ki-tô, Đấng chịu đóng đinh và phục sinh để đập tan quyền lực của Ác thần.”314


Chú thích

258 Thánh Augustinô, Confessiones, 7, 7, 11: CCL 27,99 (PL 32,739).

259 X. 1 Tm 3,16.

260 X. Rm 5,20.

261 X. Lc 11,21-22; Ga 16,11; 1 Ga 3,8.

262 X. Rm 5,12-21.

263 X. 1 Cr 2,16.

264 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 13: AAS 58 (1966) 1034-1035.

265 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, canon 3: DS 1513; ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Humani generis: DS 3897; ĐGH Phao-lô VI, Diễn văn (ngày 11/7/1966): AAS 58 (1966) 649-655.

266 X. St 3,1-5.

267 X. Kn 2,24.

268 X. Ga 8,44; Kh 12,9.

269 CĐ La-tê-ra-nô IV (năm 1215), Cap. 1, De fide catholica: DS 800.

270 X. 2 Pr 2,4.

271 Thánh Gio-an thành Đa-mát, Expositio fidei 18 [De fide orthodoxa 2,4]: PTS 12,50 (PG 94,877).

272 X. Mt 4,1-11.

273 X. St 3,1-11.

274 X. Rm 5,19.

275 St 3,5.

276 Thánh Ma-xi-mô Hiển tu, Ambiguorum liber: PG 91,1156.

277 X. Rm 3,23.

278 X. St 3,9-10.

279 X. St 3,5.

280 X. St 3,7.

281 X. St 3,11-13.

282 X. St 3,16.

283 X. St 3,17.19.

284 X. Rm 8,20.

285 X. St 2,17.

286 X. St 3,19.

287 X. Rm 5,l2.

288 X. St 4,3-15.

289 X. St 6,5.12; Rm 1,18-32.

290 X. 1 Cr 1-6; Kh 2-3.

291 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, l3: AAS 58 (1966) 1035.

292 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, canon 2: DS 1512.

293 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, canon 4: DS 1514.

294 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Quaestiones disputatae de malo, 4, 1, c.: Ed. Leon. 23, 105.

295 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, canones 1-2: DS 1511-1512.

296 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, canon 3: DS 1513.

297 CĐ Arausicanô II, Canones 1-2: DS 371-372.

298 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali: DS 1510-1516.

299 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, canon 1: DS 1511; x. Dt 2,14.

300 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 25: AAS 83 (1991) 823-824.

301 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Reconciliatio et paenitentia, 16: AAS 77 (1985) 213-217.

302 X. 1 Pr 5,8.

303 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 37: AAS 58 (1966) 1055.

304 X. St 3,9.

305 X. St 3,15.

306 X. 1 Cr 15,21-22.45.

307 X. Rm 5,19-20.

308 X. ĐGH Pi-ô IX, Tông sắc Ineffabilis Deus: DS 2803.

309 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, canon 23: DS 1573.

310 Thánh Lê-ô Cả, Sermo 73, 4: CCL 88A, 453 (PL 54,151).

311 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 1, a. 3, ad 3: Ed. Leon. 11, 14; lời này của thánh Tô-ma trưng dẫn câu trong bài Công bố Tin mừng Phục sinh “Exsultet.”

312 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 13: AAS 58 (1966) 1034-1035.

313 ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 16: AAS 60 (1968) 439.

314 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 2: AAS 58 (1966) 1026.

 

 

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Tin Mừng: Thiên Chúa đã sai Con mình tới (422-424)

422. 389, 2763

“Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới Lề luật, để chuộc những ai sống dưới Lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Đây là Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa:1 Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài.2 Ngài đã thực hiện những lời hứa với tổ phụ Áp-ra-ham và con cháu ông.3 Ngài đã thực hiện vượt quá mọi điều chúng ta mong ước: Ngài đã sai Con yêu dấu của Ngài tới.4

423. Chúng tôi tin và chúng tôi tuyên xưng rằng: Chúa Giê-su Na-da-rét, một người Do-thái sinh bởi một phụ nữ Ít-ra-en tại Bêlem dưới thời vua Hê-rô-đê Cả và hoàng đế Xê-daê Augustô I, vốn làm nghề thợ mộc, đã chịu chết trên thập giá tại Giê-ru-sa-lem, thời tổng trấn Phongtiô Phi-la-tô dưới triều hoàng đế Tibêriô, Chúa Giê-su ấy là Con vĩnh cửu của Thiên Chúa, đã làm người, “Người bởi Thiên Chúa mà đến” (Ga 13,3), là “Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13; 6,33), Đấng đã đến trong xác phàm,5 bởi vì “Ngôi Lời đã trở nên người phàm, và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,14.16).

424. 683, 552

Được tác động bởi ân sủng Chúa Thánh Thần và được Chúa Cha lôi kéo, chúng tôi tin và tuyên xưng về Chúa Giê-su rằng: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt l6,l6). Trên tảng đá đức tin, mà ông Phê-rô đã tuyên xưng, Đức Ki-tô đã xây dựng Hội Thánh của Người.6

“Loan báo Tin Mừng về sự phong phú khôn lường của Đức Ki-tô” (Ep 3,8) (425)

425. 850, 858

Lưu truyền đức tin Ki-tô Giáo, trước tiên là loan báo Chúa Giê-su Ki-tô, để dẫn đưa người ta đến chỗ tin vào Người. Ngay từ đầu, các môn đệ tiên khởi đã khao khát loan báo Đức Ki-tô: “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Các ông đã kêu mời con người trong mọi thời đại vào hưởng niềm vui hiệp thông với Đức Ki-tô:

“Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời Sự Sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Giê-su Ki-tô, Con của Ngài. Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (1 Ga 1,1-4).

Trọng tâm của việc dạy giáo lý: Đức Ki-tô (426-429)

426. 1698, 513, 260

“Phải xác quyết ngay rằng, ở trung tâm của việc dạy giáo lý, chủ yếu chúng ta gặp một nhân vật: đó là Chúa Giê-su Ki-tô Na-da-rét, ‘Con Một của Chúa Cha’… Người đã chịu khổ hình và đã chịu chết vì chúng ta; và Người, từ khi sống lại, luôn luôn sống với chúng ta… Dạy giáo lý là giúp người ta nhận ra toàn bộ kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong con người Đức Ki-tô; là tìm hiểu ý nghĩa các hành động và lời nói của Đức Ki-tô, và các dấu lạ Người đã thực hiện.”7 Mục đích của việc dạy giáo lý là “dẫn đưa con người đến hiệp thông với Chúa Giê-su Ki-tô; chỉ một mình Người mới có thể dẫn người ta đến tình yêu của Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần và đến chỗ được thông phần vào sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh.”8

427. 2145, 876

“Trong việc dạy giáo lý, phải giảng dạy Đức Ki-tô, là Ngôi Lời nhập thể và là Con Thiên Chúa, những điều khác phải được quy chiếu về Người; chỉ một mình Đức Ki-tô giảng dạy, còn bất cứ ai khác giảng dạy đều phải là phát ngôn viên của Người, phải để Đức Ki-tô nói qua miệng lưỡi họ… Mọi giáo lý viên đều phải có thể áp dụng cho mình lời nói huyền nhiệm này của Chúa Giê-su: ‘Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi’” (Ga 7,l6).9

428. Ai được kêu gọi rao giảng Tin Mừng Đức Ki-tô, trước hết phải tìm “mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Ki-tô”; người ấy phải “đành mất hết”, “để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người”, và để “biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,8-11).

429. 851

Từ việc nhận biết Đức Ki-tô với tâm tình yêu mến, sẽ nảy sinh ước ao loan báo Người, ước ao “rao giảng Tin Mừng” về Người, và ước ao dẫn đưa người khác đến chỗ “chấp nhận” đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Nhưng đồng thời, người ta cũng cảm thấy nhu cầu phải luôn hiểu biết đức tin ấy một cách tốt hơn. Nhằm mục đích đó, theo thứ tự của Tín biểu, trước hết các tước hiệu chính của Chúa Giê-su sẽ được trình bày: Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Chúa (Mục 2). Tiếp đó Tín biểu tuyên xưng các mầu nhiệm chính yếu của cuộc đời Đức Ki-tô: các mầu nhiệm về việc Nhập Thể của Người (Mục 3), các mầu nhiệm về cuộc Vượt Qua của Người (Mục 4 và 5) và sau cùng các mầu nhiệm về sự Tôn Vinh Người (Mục 6 và 7).


Đề mục

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)


Chú thích

1 X. Mc 1,1.

2 X. Lc 1,68.

3 X. Lc 1,55.

4 X. Mc 1,11.

5 X. 1 Ga 4,2.

6 X. Mt 16,18; Thánh Lê-ô Cả, Sermo 4, 3: CCL 88,19-20 (PL 54,151); Sermo 51,1: CCL 88A, 296-297 (PL 54,309); Sermo 62, 2: CCL 88A, 377-378 (PL 54,350-351); Sermo 83, 3: CCL 88A, 521-522 (PL 54,432).

7 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 5: AAS 71 (1979) 1280-1281.

8 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 5: AAS 71 (1979) 1281.

9 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 6: AAS 71 (1979) 1281-1282.

 

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

I. Chúa Giê-su (430-435)

430. 210, 402

Trong tiếng Do-thái, “Giê-su” có nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ.” Khi Truyền tin, thiên thần Gáp-ri-en dạy đặt tên cho Người là Giê-su; tên gọi này vừa diễn tả căn tính của Người, vừa diễn tả sứ vụ của Người.10 Bởi vì không ai “có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa” (Mc 2,7), cho nên, trong Chúa Giê-su là Con vĩnh cửu của Ngài, đã làm người, chính Thiên Chúa “sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Như vậy, nơi Chúa Giê-su, Thiên Chúa tóm kết toàn bộ lịch sử cứu độ của Ngài cho nhân loại.

431. 1441, 1850, 388

Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa không chỉ bằng lòng với việc giải thoát Ít-ra-en khỏi “cảnh nô lệ” (Đnl 5,6) khi đưa họ ra khỏi Ai-cập. Ngài còn cứu họ khỏi tội lỗi của họ nữa. Bởi vì tội luôn là một xúc phạm đến Thiên Chúa,11 nên chỉ mình Ngài mới có quyền tha tội.12 Vì vậy, khi Ít-ra-en càng ý thức rõ hơn về tính phổ quát của tội lỗi, họ càng không thể tìm kiếm ơn cứu độ ngoài việc khẩn cầu danh Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc.13

432. 589, 2666, 389, 161

Danh “Giê-su” nói lên rằng chính Danh Thánh Thiên Chúa hiện diện nơi bản thân của Con Ngài,14 Đấng đã làm người để cứu chuộc mọi người khỏi tội lỗi một cách dứt khoát. “Giê-su” là một Danh thần linh, Danh duy nhất mang lại ơn cứu độ,15 và từ nay mọi người có thể kêu cầu Danh của Người, bởi vì qua việc Nhập Thể, chính Người đã tự kết hợp với tất cả mọi người16 đến độ “dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12).17

433. 615

Thánh danh Thiên Chúa Cứu Độ được vị thượng tế kêu cầu mỗi năm một lần để xin ơn xá tội cho Ít-ra-en, khi ông lấy máu của hy lễ rảy lên bàn xá tội trong nơi Cực Thánh.18 Bàn xá tội xưa là nơi Thiên Chúa hiện diện.19 Khi thánh Phao-lô nói về Chúa Giê-su: “Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người” (Rm 3,25), ông muốn nói rằng trong bản tính nhân loại của Chúa Giê-su, “Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Ngài” (2 Cr 5,l9).

434. 2812, 2614

Việc phục sinh của Chúa Giê-su làm hiển vinh thánh danh Thiên Chúa Cứu Độ,20 bởi vì từ lúc đó Danh Giê-su bày tỏ cách trọn vẹn quyền năng tối thượng của “Danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,9-10). Các Thần dữ khiếp sợ Danh Người,21 và nhân Danh Người, các môn đệ Chúa Giê-su làm nhiều phép lạ,22 bởi vì tất cả những gì họ xin Chúa Cha nhân danh Chúa Giê-su, Chúa Cha đều ban cho họ.23

435. 2667-2668, 2676

Danh Chúa Giê-su nằm ở trung tâm của kinh nguyện Ki-tô Giáo. Tất cả các lời nguyện trong phụng vụ đều kết thúc bằng công thức: “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con.” Tột đỉnh của Kinh Kính Mừng Ma-ri-a là câu “và Giê-su, con lòng Bà gồm phúc lạ.” Lời tâm nguyện của Giáo Hội Đông phương, gọi là “Lời khẩn nguyện Chúa Giê-su” (oratio Iesu) thưa lên rằng: “Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Nhiều Ki-tô hữu đã chết khi miệng chỉ kêu danh thánh “Giê-su”, như thánh nữ Gioanna xứ Arc (Jean d’Arc).24

Bài này đã được xem 5705 lần!

Pages ( 16 of 96 ): <1 ... 1415 16 1718 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]