GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

II. Đức Ki-tô (436-440)

436. 690, 695, 711-716, 783

Danh hiệu “Ki-tô” là một từ Hy Lạp, dịch từ “Mê-si-a” của tiếng Do-thái, có nghĩa là “người được xức dầu.” Danh hiệu này trở thành tên riêng của Chúa Giê-su bởi vì Người đã chu toàn cách hoàn hảo sứ vụ thần linh mà danh hiệu ấy bao hàm. Quả vậy, trong Ít-ra-en, những ai được thánh hiến cho Thiên Chúa để thi hành một sứ vụ Ngài giao phó, đều được xức dầu nhân danh Thiên Chúa. Đó là trường hợp của các vua,25 các tư tế26 và đôi khi, các tiên tri.27 Đó phải là, một cách tuyệt hảo, trường hợp của Đấng Mê-si-a, là người Thiên Chúa sai đến để thiết lập Nước của Ngài cách vĩnh viễn.28 Đấng Mê-si-a phải được xức dầu bằng Thần Khí của Chúa29 với tư cách là vua, đồng thời là tư tế,30 và cũng với tư cách là tiên tri.31 Chúa Giê-su đã thực hiện niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a của Ít-ra-en trong ba nhiệm vụ của Người là Tư tế, Tiên tri và Vương đế.

437. 525, 486

Thiên thần đã loan báo cho các mục đồng việc Giáng Sinh của Chúa Giê-su, với tính cách là việc ra đời của Đấng Mê-si-a đã được hứa ban cho Ít-ra-en: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là ĐỨC CHÚA” (Lc 2,11). Ngay từ đầu, Chúa Giê-su là “Đấng Chúa Cha đã hiến thánh và sai đến thế gian” (Ga 10,36), với tư cách là “Đấng Thánh” (Lc 1,35) được cưu mang trong lòng dạ trinh khiết của Đức Ma-ri-a.32 Thánh Giu-se được Thiên Chúa kêu gọi đón bà Ma-ri-a vợ ông về, “vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20), để Chúa Giê-su, “cũng gọi là Đấng Ki-tô” (Mt 1,16), được sinh ra do vợ ông Giu-se trong dòng tộc thiên sai (in generatione messianica) của vua Đa-vít.33

438. 727, 535

Việc được thánh hiến làm Đấng Mê-si-a của Chúa Giê-su biểu lộ sứ vụ thần linh của Người. “Trong danh hiệu ‘Ki-tô’ bao gồm Đấng xức dầu, Đấng được xức dầu, và chính việc xức dầu: Đấng xức dầu là Chúa Cha, Đấng được xức dầu là Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần, Đấng là Việc xức dầu.”34 Việc xức dầu thánh hiến vĩnh cửu của Chúa Giê-su được mặc khải trong cuộc đời trần thế của Người khi Người chịu phép rửa bởi ông Gio-an, khi “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38) “để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en” (Ga 1,3l) trong tư cách là Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa. Những việc Người làm và những lời Người dạy giúp cho chúng ta nhận biết Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa.”35

439. 528-529, 547

Nhiều người Do-thái, và cả một số người ngoại cùng chia sẻ niềm hy vọng của Ít-ra-en, đã nhận ra nơi Chúa Giê-su những nét cơ bản của “Con vua Đa-vít”, Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa đã hứa ban cho Ít-ra-en.36 Chúa Giê-su đã chấp nhận danh hiệu Mê-si-a, Người có quyền làm như vậy,37 nhưng Người chấp nhận một cách dè dặt, bởi vì danh hiệu này bị một số người đương thời với Người hiểu theo một quan niệm quá phàm trần,38 đặc biệt mang tính chất chính trị.39

440. 552, 550, 445

Khi thánh Phê-rô tuyên xưng Người là Đấng Mê-si-a, Chúa Giê-su chấp nhận lời tuyên xưng đức tin đó, nhưng Người loan báo ngay cuộc khổ nạn đã gần đến của “Con Người.”40 Người tỏ cho thấy ý nghĩa đích thực của vương quyền Mê-si-a của Người, vừa trong căn tính siêu việt của Con Người, “Đấng từ trời xuống” (Ga 3,l3),41 vừa trong sứ vụ cứu chuộc của Người với tư cách là Người Tôi trung đau khổ: “Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).42 Do đó, ý nghĩa đích thực của vương quyền Người chỉ được biểu lộ cách tột đỉnh trên Thập Giá.43 Chỉ sau khi Người sống lại, thánh Phê-rô mới có thể công bố vương quyền Mê-si-a của Người trước mặt dân Thiên Chúa: “Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Chúa Giê-su mà anh em đã treo trên Thập Giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Chúa và làm Đấng Ki-tô” (Cv 2,36).

III. Con Một Đức Chúa Cha (441-445)

441. Trong Cựu Ước “Con Thiên Chúa” là danh hiệu được ban cho các Thiên thần,44 cho dân Chúa chọn,45 cho con cái Ít-ra-en,46 và cho các vua của họ.47 Trong những trường hợp ấy, danh hiệu “Con Thiên Chúa” nói lên việc Thiên Chúa nhận một số thụ tạo làm nghĩa tử, và việc này tạo nên những mối liên hệ thân tình đặc biệt giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài. Khi vị Vua Mê-si-a của lời hứa được gọi là “Con Thiên Chúa”,48 điều này, xét theo nghĩa văn tự của các bản văn nêu trên, không nhất thiết hàm ý rằng Người có bản tính vượt trổi phàm nhân. Những người đã gọi Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a của Ít-ra-en49 có lẽ cũng không có ý muốn nói gì hơn.50

442. 552, 424

Trường hợp thánh Phê-rô thì khác, khi ông tuyên xưng Chúa Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”,51 bởi vì Chúa Giê-su đã long trọng trả lời ông: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt l6,l7). Tương tự như vậy, khi đề cập đến cuộc hối cải của mình trên đường đi Đamas, thánh Phao-lô đã nói: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Ngài. Ngài đã đoái thương mặc khải Con của Ngài cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Ngài cho các dân ngoại” (Gl 1,l5-16). “Lập tức, ông bắt đầu rao giảng Chúa Giê-su trong các hội đường, rằng Người là Con Thiên Chúa” (Cv 9,20). Ngay từ đầu,52 điều này đã là trung tâm của đức tin tông truyền,53 đức tin mà thánh Phê-rô, với tư cách là nền tảng Hội Thánh, đã tuyên xưng trước hết.54

443. 2786

Nếu thánh Phê-rô có thể nhận ra tính chất siêu việt trong tư cách Con Thiên Chúa của Chúa Giê-su, Đấng Mê-si-a, thì đó là bởi vì chính Người đã nói lên điều đó cách rõ ràng. Trước Thượng Hội đồng, khi những kẻ tố cáo hỏi Người: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?”, Chúa Giê-su trả lời: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây” (Lc 22,70).55 Trước đó đã lâu, Chúa Giê-su đã tự xưng mình là “Con”, là người biết rõ Chúa Cha,56 là người phân biệt mình với các “tôi tớ” mà Thiên Chúa đã sai đến trước với dân Ngài,57 là người trổi vượt trên cả các Thiên thần.58 Chúa Giê-su phân biệt tư cách làm “Con” của Người với tư cách làm con của các môn đệ Người vì không bao giờ Người nói “Cha chúng ta”,59 trừ lúc truyền dạy họ: “Anh em hãy cầu nguyện như thế này: ‘Lạy Cha chúng con’” (Mt 6,9); và Người nhấn mạnh sự khác biệt giữa “Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em” (Ga 20,17).

444. 536, 554

Vào hai thời điểm quan trọng, lúc Đức Ki-tô chịu Phép Rửa và lúc Người Hiển Dung, các sách Tin Mừng nhắc đến tiếng Chúa Cha gọi Chúa Giê-su là “Con yêu dấu” của Ngài.60 Chính Chúa Giê-su cũng tự xưng là “Con Một” của Thiên Chúa (Ga 3,16) và qua danh hiệu đó, xác quyết sự tiền hữu vĩnh cửu (aeternam praeexsistentiam) của mình.61 Người đòi phải tin vào “danh Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,l8). Lời tuyên xưng này của Ki-tô Giáo đã xuất hiện ngay từ tiếng kêu của viên đại đội trưởng trước mặt Chúa Giê-su trên thập giá: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc l5,39). Chỉ trong mầu nhiệm Vượt Qua, người tin tước hiệu “Con Thiên Chúa” mới có thể hiểu được ý nghĩa cao cả nhất của tước hiệu đó.

445. 653

Sau khi Người phục sinh, tư cách Con Thiên Chúa của Đức Ki-tô tỏ rạng trong quyền năng của nhân tính được tôn vinh của Người. “Từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1,4).62 Các Tông Đồ có thể tuyên xưng: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,l4).

IV. Chúa (446-451)

446. 209

Trong bản dịch các sách Cựu ước ra tiếng Hy-lạp, YHWH, danh không thể xưng mà Thiên Chúa dùng để tự mặc khải cho ông Mô-sê,63 được dịch là Kyrios (“Chúa”). Từ đó, tước hiệu “Chúa” trở thành danh xưng thông dụng nhất để nói lên chính thần tính của Thiên Chúa Ít-ra-en. Tân Ước dùng tước hiệu “Chúa”, theo nghĩa mạnh như trên, cho Chúa Cha, và đồng thời, và đây là điều mới mẻ, cũng dùng cho Chúa Giê-su, qua đó nhìn nhận Người chính là Thiên Chúa.64

447. 548

Chính Chúa Giê-su nhận tước hiệu ấy cho mình một cách mặc nhiên khi tranh luận với các người Pha-ri-sêu về ý nghĩa thánh vịnh 110,65 nhưng khi nói chuyện với các Tông Đồ thì Người nhận một cách minh nhiên.66 Trong suốt cuộc đời công khai của Người, những cử chỉ thống trị của Chúa Giê-su trên thiên nhiên, trên bệnh tật, trên ma quỷ, trên sự chết và tội lỗi, chứng tỏ Người có quyền tối thượng của Thiên Chúa.

448. 208, 683, 641

Trong các sách Tin Mừng, khi thưa chuyện với Chúa Giê-su, người ta rất thường gọi Người là “Chúa.” Tước hiệu này cho thấy lòng tôn kính và tin tưởng của những người đến với Chúa Giê-su và mong đợi Người cứu giúp và chữa lành.67 Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, khi thưa như vậy, người ta nhìn nhận mầu nhiệm thần linh của Chúa Giê-su.68 Khi gặp gỡ Chúa Giê-su Phục sinh, việc gọi tước hiệu ấy trở thành việc thờ lạy: “Lạy Chúa của con! lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Lúc đó, việc gọi Người như vậy còn mang ý nghĩa kính yêu và thân ái, là điểm riêng của truyền thống Ki-tô Giáo: “Chúa đó!” (Ga 21,7).

449. 461, 653

Khi dành cho Chúa Giê-su tước hiệu thần linh là “Chúa”, những lời tuyên xưng đức tin tiên khởi của Hội Thánh xác quyết ngay từ đầu69 rằng quyền năng, danh dự và vinh quang thuộc về Chúa Cha cũng thuộc về Chúa Giê-su,70 bởi vì Người “vốn dĩ là Thiên Chúa” (Pl 2,6), và bởi vì Chúa Cha đã làm tỏ hiện quyền chủ tể này của Chúa Giê-su khi cho Người sống lại từ cõi chết và tôn dương Người trong vinh quang của Ngài.71

450. 668-672, 2242

Ngay từ đầu lịch sử Ki-tô Giáo, việc xác quyết quyền chủ tể của Chúa Giê-su trên trần gian và trên lịch sử72 cũng có nghĩa là nhìn nhận rằng, con người không được để cho tự do cá nhân của mình suy phục một cách tuyệt đối bất cứ quyền bính trần thế nào, nhưng chỉ suy phục một mình Thiên Chúa là Cha và Chúa Giê-su Ki-tô: Hoàng đế Xê-da không phải là “Chúa.”73 Hội Thánh “tin rằng mình gặp được chìa khóa, trung tâm và cứu cánh của toàn thể lịch sử nhân loại nơi Chúa và Thầy của mình.”74

451. 2664-2665, 2817

Kinh nguyện Ki-tô Giáo được ghi dấu bằng tước hiệu “Chúa”, dù là lời mời gọi cầu nguyện “Chúa ở cùng anh chị em”, dù là câu kết thúc lời nguyện: “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con”, hay cả trong tiếng kêu đầy tin tưởng và hy vọng “Maran atha” (“Chúa đến!”) hoặc “Marana tha” (“Lạy Chúa, xin ngự đến!”) (l Cr l6,22). “A-men. Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,20).

Tóm lược (452-455)

452. Thánh Danh Giê-su có nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ.” Hài nhi sinh bởi Đức Trinh Nữ Ma-ri-a được gọi là “Giê-su”: “Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). “Dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12).

453. Danh hiệu “Ki-tô” có nghĩa là “Đấng được xức dầu”, “Đấng Mê-si-a.” Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô bởi vì “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38). Người là “Đấng phải đến” (Lc 7,19), là đối tượng của niềm hy vọng của Ít-ra-en.75

454. Danh hiệu “Con Thiên Chúa” nói lên mối tương quan duy nhất và vĩnh cửu của Chúa Giê-su Ki-tô với Thiên Chúa, Cha của Người. Người là Con Một của Chúa Cha76 và là chính Thiên Chúa.77 Ai muốn trở thành Ki-tô hữu, người ấy nhất thiết phải tin rằng Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa.78

455. Danh hiệu “Chúa” nói lên quyền tối thượng của Thiên Chúa. Tuyên xưng hay kêu cầu Chúa Giê-su là Chúa, là tin vào thần tính của Người. “Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12,3).


Chú thích

10 X. Lc 1,31.

11 X.Tv 51,6.

12 X.Tv 51,11.

13 X. Tv 79,9.

14 X. Cv 5,41; 3 Ga 7.

15 X. Ga 3,18; Cv 2,21.

16 X. Rm 10,6-13.

17 X. Cv 9,14; Gc 2,7.

18 X. Lv 16,15-16; Gv 50,22; Dt 9,7.

19 X. Xh 25,22; Lv 16,2; Ds 7,89; Dt 9,5.

20 X. Ga 12,28.

21 X. Cv 16,16-18; 19,13-16.

22 X. Mc 16,17.

23 X. Ga l5,l6.

24 X. La réhabilitation de Jeanne la Pucelle. L’enquête ordonnée par Charles VII en 1450 et le codicille de Guillaume Bouillé, ed. P. Doncoeur-Y. Lanhers (Paris 1956) 39.45.56.

25 X. 1 Sm 9,16; 10,1; 16,1.12-13; 1 V 1,39.

26 X. Xh 29,7; Lv 8,12.

27 X. 1V 19,16.

28 X. Tv 2,2; Cv 4,26-27.

29 X. Is 11,2.

30 X. Zc 4,14; 6,13.

31 X. Is 61,1; Lc 4,16-21.

32 X. Lc 1,35.

33 X. Rm 1,3; 2 Tm 2,8; Kh 22,l6.

34 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 18, 3: SC 211,350 (PG 7,934).

35 X. Mc 1,24; Ga 6,69; Cv 3,l4.

36 X. Mt 2,2; 9,27, 12,23; 15,22; 20,30; 21,9.15.

37 X. Ga 4,25-26; 11,27.

38 X. Mt 22,41-46.

39 X. Ga 6,l5; Lc 24,2l.

40 X. Mt l6,l6-23.

41 X. Ga 6,62; Đn 7,13.

42 X. Is 53,10-12.

43 X. Ga l9,19-22; Lc 23,39-43.

44 X. Đnl (LXX) 32,8; G 1,6.

45 X. Xh 4,22; Hs 11,1; Gr 3,l9; Gv 36,14; Kn l8,l3.

46 X. Đnl l4,1; Hs 2,1.

47 X. 2 Sm 7,l4; Tv 82,6.

48 X. 1 Sbn 17,13; Tv 2,7.

49 X. Mt 27,54.

50 X. Lc 23,47.

51 X. Mt 16,16.

52 X. 1 Tx 1,10.

53 X. Ga 20,3l.

54 X. Mt l6,l8.

55 X. Mt 26,64; Mc 14,62.

56 X. Mt 11,27; 21,37-38.

57 X. Mt 21,34-36.

58 X. Mt 24,36.

59 X. Mt 5,48; 6,8; 7,21; Lc 11,13.

60 X. Mt 3,17; 17,5.

61 X. Ga 10,36.

62 X. Cv 13,33.

63 X. Xh 3,14.

64 X. 1 Cr 2,8.

65 X. Mt 22,41-46; Cv 2,34-36; Dt 1,13.

66 X. Ga 13,13.

67 X. Mt 8,2; 14,30; 15,22.

68 X. Lc 1,43; 2,11.

69 X. Cv 2,34-36.

70 X. Rm 9,5; Tt 2,13; Kh 5,13.

71 X. Rm 10,9; 1 Cr 12,3; Pl 2,9-11.

72 X. Kh 11,15.

73 X. Mc 12,17; Cv 5,29.

74 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 10: AAS 58 (1966) 1033; x. Ibid., 45: AAS 58 (1966) 1066.

75 X. Cv 28,20.

76 X. Ga 1,14.18; 3,16.18.

77 X. Ga 1,1.

78 X. Cv 8,37; 1 Ga 2,23.

 

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Đề mục

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

I. Tại sao Ngôi Lời làm người? (456-460)

456. Cùng với Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli, chúng ta tuyên xưng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a và đã làm người.”79

457. 607, 385

Ngôi Lời đã làm người để cứu độ chúng ta, bằng cách giao hòa chúng ta với Thiên Chúa: Thiên Chúa “đã yêu thương chúng ta và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10). “Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến làm Đấng cứu độ thế gian” (1 Ga 4,14). “Chúa Giê-su đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi” (1 Ga 3,5):

“Bản tính chúng ta vì bệnh tật nên cần được chữa lành, vì sa ngã nên cần được nâng dậy, vì đã chết nên cần được phục sinh. Chúng ta đã đánh mất việc thông phần vào sự thiện, nên cần được dẫn trở về sự thiện. Chúng ta bị vây hãm trong bóng tối, nên cần đến ánh sáng. Chúng ta bị tù đày nên mong người cứu chuộc; bị thua trận, nên cần người trợ giúp, bị áp bức dưới ách nô lệ nên chờ người giải phóng. Đó lại là những lý do nhỏ bé và không xứng đáng để làm cho Thiên Chúa động lòng hay sao? Những lý do ấy không đủ để Thiên Chúa xuống viếng thăm bản tính nhân loại, trong lúc nhân loại đang ở trong tình trạng khốn cùng và bất hạnh hay sao?”80

458. 219

Ngôi Lời đã làm người để chúng ta nhận biết tình yêu của Thiên Chúa: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống” (1 Ga 4,9). “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

459. 520, 823, 2012, 1717, 1965

Ngôi Lời đã làm người để trở thành gương mẫu thánh thiện cho chúng ta. “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi…” (Mt 11,29). “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Và trên núi Hiển Dung, Chúa Cha đã truyền: “Hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7).81 Người đúng là gương mẫu của các mối phúc thật và là chuẩn mực của Luật mới: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Tình yêu này đòi hỏi người ta thật sự hiến thân để đi theo Người.82

460. 1265, 1391, 1988

Ngôi Lời đã làm người để làm cho chúng ta được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). “Chính vì điều này mà Ngôi Lời của Thiên Chúa làm người, Đấng là Con Thiên Chúa trở nên Con Người, đó là để cho loài người, khi kết hợp với Ngôi Lời của Thiên Chúa và nhận quyền làm nghĩa tử, thì được trở nên con cái Thiên Chúa.”83 “Chính Người đã làm người, để chúng ta được trở thành những vị thần.”84 “Con Một Thiên Chúa, bởi muốn cho chúng ta được tham dự vào thần tính của Người, nên đã mang lấy bản tính của chúng ta, để Đấng đã làm người, làm cho người ta trở thành những vị thần.”85

II. Nhập Thể (461-463)

461. 653, 661, 449

Lấy lại cách nói của thánh Gio-an (“Ngôi Lời đã trở thành nhục thể”: Ga 1,14), Hội Thánh dùng từ “Nhập Thể” để gọi sự kiện Con Thiên Chúa nhận lấy bản tính nhân loại, để thực hiện việc cứu độ chúng ta trong bản tính ấy. Trong một thánh thi do thánh Phao-lô ghi lại, Hội Thánh hát mừng mầu nhiệm Nhập Thể như sau:

“Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su: Chúa Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,5-8).86

462. Thư gửi tín hữu Do-thái cũng nói về mầu nhiệm ấy như sau:

“Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,5-7, trích Tv 40,7-9, bản LXX).

Bài này đã được xem 5666 lần!

Pages ( 17 of 96 ): <1 ... 1516 17 1819 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]