GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

463. 90

Tin vào việc Nhập Thể thật của Con Thiên Chúa là dấu hiệu đặc trưng của đức tin Ki-tô Giáo. “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra Thần Khí của Thiên Chúa: Thần Khí nào tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, và trở nên người phàm, thì Thần Khí ấy bởi Thiên Chúa” (1 Ga 4,2). Đó cũng là niềm xác tín hân hoan của Hội Thánh ngay từ buổi đầu, khi hát mừng “mầu nhiệm cao cả của đạo thánh”: “Đức Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm” (1 Tm 3,16).

III. Thiên Chúa thật và người thật (464-469)

464. 88

Biến cố độc nhất vô nhị là việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa không có nghĩa là Chúa Giê-su Ki-tô một phần là Thiên Chúa, một phần là người; cũng không có nghĩa Người là kết quả của một sự pha trộn lẫn lộn giữa hai bản tính thần linh và nhân loại. Người đã thật sự làm người, mà vẫn thật sự là Thiên Chúa. Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật. Hội Thánh đã phải bảo vệ và làm sáng tỏ chân lý đức tin này suốt những thế kỷ đầu tiên, trước các lạc thuyết đã làm sai lạc chân lý đó.

465. 242

Các lạc thuyết đầu tiên không phủ nhận thần tính của Đức Ki-tô, cho bằng chối bỏ nhân tính thật của Người (Ảo thân thuyết theo chủ trương Ngộ đạo). Ngay từ thời các Tông Đồ, đức tin Ki-tô Giáo nhấn mạnh đến việc Nhập Thể thật của Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trong xác phàm.87 Nhưng vào thế kỷ thứ III, để chống lại Phao-lô Samosatênô, tại Công đồng họp ở An-ti-ô-khi-a, Hội Thánh phải khẳng định rằng: Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa do bản tính chứ không phải do được nhận làm nghĩa tử. Công đồng chung thứ I, họp tại Ni-xê-a vào năm 325, tuyên xưng trong Tín biểu của mình rằng: Con Thiên Chúa “được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha” (trong tiếng Hy Lạp là homousion),88 và Hội Thánh đã kết án Ariô là người đã khẳng định rằng “Con Thiên Chúa đã xuất phát từ hư vô”89 và “có một bản thể hay yếu tính khác với Chúa Cha.”90

466. 495

Lạc thuyết của Nestôriô cho rằng trong Đức Ki-tô ngôi vị nhân loại được liên kết với Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa. Chống lại lạc thuyết này, Thánh Cyrillô Alêxanđria và Công đồng chung thứ III họp tại Êphêsô năm 431 tuyên xưng rằng: “Ngôi Lời đã làm người, khi một thân thể do một linh hồn có lý trí làm cho sống động được kết hợp với Ngài theo Ngôi Vị.”91 Nhân tính của Đức Ki-tô không có một chủ thể nào khác ngoài Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa, Đấng đã nhận lấy nhân tính ấy làm của mình từ lúc tượng thai. Chính vì vậy, Công đồng chung Êphêsô vào năm 431 công bố rằng Đức Ma-ri-a, nhờ sự tượng thai nhân loại của Con Thiên Chúa trong lòng bà, bà đã rất thật sự trở thành Mẹ Thiên Chúa: “[Đức Ma-ri-a là] Mẹ Thiên Chúa…, không phải vì bản tính của Ngôi Lời và thần tính của Ngài đã bắt đầu được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ rất thánh, nhưng vì từ Đức Trinh Nữ đã sinh ra thân xác thánh thiêng đó, do một linh hồn có lý trí làm cho sống động, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã kết hợp với thân xác đó theo Ngôi Vị, nên có thể nói Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác phàm.”92

467. Những người chủ trương thuyết Nhất Tính (Monophysitae) khẳng định: bản tính nhân loại không còn tồn tại nơi Đức Ki-tô, khi bản tính đó được Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa đảm nhận. Để chống lại lạc thuyết này, Công đồng chung thứ IV, họp tại Chalcêđônia năm 451, tuyên xưng:

“Theo sau các thánh phụ, chúng tôi đồng thanh dạy phải tuyên xưng Một Chúa Con Duy Nhất là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, hoàn hảo trong thần tính và cũng hoàn hảo trong nhân tính; là Thiên Chúa thật và là người thật, gồm có một linh hồn có lý trí và một thân xác; đồng bản thể với Đức Chúa Cha theo thần tính mà cũng đồng bản tính với chúng ta theo nhân tính, ‘giống chúng ta về mọi phương diện ngoại trừ tội lỗi’;93 sinh bởi Đức Chúa Cha theo thần tính từ trước muôn đời, và trong những thời cuối cùng này, vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người được sinh ra theo nhân tính từ Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa.

Cùng một Đấng duy nhất là Đức Ki-tô, là Chúa, là Con Một, phải được nhìn nhận trong hai bản tính một cách không lẫn lộn, không thay đổi, không phân chia, không tách biệt, sự khác biệt giữa hai bản tính không hề bị mất đi do việc kết hợp, nhưng các đặc điểm của mỗi bản tính đã được bảo tồn khi kết hợp với nhau trong một Ngôi Vị và một Đấng duy nhất.”94

468. 254, 616

Sau Công đồng Chalcêđônia một số người biến nhân tính của Đức Ki-tô thành như một chủ thể có ngôi vị riêng. Chống lại những người này, Công đồng chung thứ V, họp tại Constantinôpôli, năm 553, tuyên xưng rằng: “Chỉ có một Ngôi Vị duy nhất, là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Một Ngôi Vị trong Ba Ngôi Chí Thánh.”95 Bởi vậy, mọi sự trong nhân tính của Đức Ki-tô đều phải được quy về Ngôi Vị thần linh của Người với tư cách là chủ thể riêng của Người,96 không những các phép lạ, nhưng cả những đau khổ97 và chính cái chết: chúng tôi tuyên xưng rằng “Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, Đấng bị đóng đinh vào thập giá về phần xác, là Thiên Chúa thật, là Chúa vinh quang, và là một Ngôi trong Ba Ngôi chí thánh.”98

469. 212

Như vậy, Hội Thánh tuyên xưng rằng Chúa Giê-su là Thiên Chúa thật và là người thật một cách không thể tách biệt. Người thật sự là Con Thiên Chúa đã làm người, là anh em của chúng ta, mà vẫn không ngừng là Thiên Chúa, Chúa chúng ta: Phụng vụ Rô-ma hát kính:

“Ngài vẫn là Ngài như trước [Ngài là Thiên Chúa], và Ngài đã đảm nhận lấy điều mà trước đó Ngài không là [Ngài làm người].”99 Còn phụng vụ của thánh Gio-an Kim Khẩu công bố và hát kính: “Lạy Con duy nhất và Ngôi Lời của Thiên Chúa, dù bất tử, nhưng để cứu độ chúng con, Chúa đã đoái thương nhập thể trong lòng Đức Ma-ri-a, Mẹ rất thánh của Thiên Chúa và trọn đời đồng trinh. Chúa đã làm người và đã chịu đóng đinh vào thập giá mà không hề biến đổi. Lạy Đức Ki-tô, là Thiên Chúa, Chúa đã dùng cái chết của mình mà đập tan sự chết, Chúa là Một trong Ba Ngôi Chí Thánh, được tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, xin cứu độ chúng con!”100

IV. Con Thiên Chúa làm người như thế nào? (470-478)

470. 516, 626, 2599

Trong sự kết hợp kỳ diệu của mầu nhiệm Nhập Thể, “bản tính nhân loại được đảm nhận, chứ không bị hòa tan”,101 nên qua các thế kỷ, Hội Thánh hằng tuyên xưng Chúa Ki-tô có một linh hồn nhân loại thật với các hoạt động của trí tuệ và ý chí, và một thân xác nhân loại thật. Nhưng đồng thời Hội Thánh đã phải luôn nhắc lại rằng bản tính nhân loại của Đức Ki-tô thuộc hẳn về Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa, Đấng đã đảm nhận nó. Tất cả những gì Đức Ki-tô là và tất cả những gì Người làm trong bản tính nhân loại, đều xuất phát từ “một Đấng trong Ba Ngôi Thiên Chúa.” Vì vậy, Con Thiên Chúa truyền thông cho nhân tính của Người cách thức hiện hữu riêng của Ngôi Vị mình trong Ba Ngôi. Như vậy, trong linh hồn cũng như trong thân xác của Người, Đức Ki-tô diễn tả theo cách thế nhân loại cung cách hành xử của Thiên Chúa Ba Ngôi:102

“Con Thiên Chúa đã làm việc với đôi tay nhân loại, suy nghĩ bằng trí óc nhân loại, hành động theo ý chí nhân loại, yêu mến bằng quả tim nhân loại. Sinh làm con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Người đã thật sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.”103

Linh hồn và tri thức nhân loại của Đức Ki-tô (471-474)

471. 363

A-pô-li-na-ri-ô Lao-đi-cen-sê cho rằng trong Đức Ki-tô, Ngôi Lời đã thay thế linh hồn hay tinh thần. Để chống lại điều sai lạc này, Hội Thánh tuyên xưng: Ngôi Con hằng hữu cũng đã đảm nhận một linh hồn nhân loại có lý trí.104

472. Linh hồn nhân loại này, mà Con Thiên Chúa đã đảm nhận, đã được phú bẩm một tri thức nhân loại thật sự. Tri thức này, theo đúng nghĩa, tự nó không thể có tính chất vô hạn: nó được hình thành trong các điều kiện lịch sử của cuộc sống trong không gian và thời gian. Do đó, Con Thiên Chúa khi làm người, đã có thể chấp nhận “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa” (Lc 2,52) và thậm chí Người còn phải tìm hiểu về những điều mà trong điều kiện nhân loại, phải được học hỏi qua kinh nghiệm.105 Điều này phù hợp với việc Người tự nguyện hạ mình “mặc lấy thân nô lệ.”106

473. 240

Nhưng, đồng thời, tri thức nhân loại thật sự này của Con Thiên Chúa cũng diễn tả sự sống thần linh của Ngôi Vị của Người.107 “Con Thiên Chúa biết hết mọi sự; và con người mà Người tiếp nhận cũng biết như thế, không phải do bản tính, nhưng do kết hợp với Ngôi Lời. Nhân tính, được kết hợp với Ngôi Lời, biết hết mọi sự và biểu hiện những đặc tính thần linh xứng với uy quyền nơi mình.”108 Trước hết, đó là trường hợp Con Thiên Chúa làm người có một sự hiểu biết thâm sâu và trực tiếp về Cha của Người.109 Trong tri thức nhân loại của mình, Chúa Con cũng cho thấy Người có khả năng thần linh nhìn thấu những tư tưởng thầm kín trong lòng dạ người ta.110

474. Tri thức nhân loại của Đức Ki-tô, vì được kết hợp với Đức Khôn Ngoan thần linh trong Ngôi Lời nhập thể, hiểu biết đầy đủ các kế hoạch vĩnh cửu mà Người đến để mặc khải.111 Điều Người nói là Người không biết trong lãnh vực này,112 thì ở chỗ khác Người tuyên bố là Người không có sứ vụ mặc khải điều ấy.113

Ý muốn nhân loại của Đức Ki-tô (475)

475. 2008, 2824

Một cách tương tự, trong Công đồng chung thứ VI, Hội Thánh đã tuyên xưng rằng Đức Ki-tô có hai ý muốn và hai hoạt động theo hai bản tính Thiên Chúa và nhân loại, không đối kháng nhưng hợp tác với nhau, cho nên Ngôi Lời làm người, trong sự phục tùng theo nhân tính đối với Chúa Cha, đã muốn điều mà Người đã quyết định, theo thần tính, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, về ơn cứu độ chúng ta.114 Hội Thánh nhận biết rằng “ý muốn nhân loại của Người luôn theo ý muốn thần linh, không miễn cưỡng, không đối kháng, và hơn nữa, ý muốn nhân loại của Người đã phục tùng ý muốn thần linh và toàn năng của Người.”115

Thân xác thật của Đức Ki-tô (476-477)

476. 1159-1162, 2129-2132

Bởi vì Ngôi Lời đã làm người khi đảm nhận một nhân tính thật, nên thân xác của Đức Ki-tô có những nét xác định rõ ràng.116 Do đó, dung nhan nhân loại của Chúa Giê-su có thể được “họa lại”117 Trong Công đồng chung thứ VII,118 Hội Thánh công nhận việc Người được trình bày qua các ảnh tượng thánh là hợp pháp.

477. Đồng thời, Hội Thánh cũng luôn luôn công nhận: trong thân xác của Chúa Giê-su, “Thiên Chúa vốn là Đấng vô hình, đã xuất hiện hữu hình cho chúng ta.”119 Thật vậy, các đặc điểm cá nhân của thân xác Đức Ki-tô diễn tả Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhận làm của mình những nét nhân dạng của thân xác Người, cho nên khi được họa lại nơi một ảnh tượng thánh nào đó, những nét này có thể được tôn kính, bởi vì khi tín hữu tôn kính ảnh tượng thánh, là họ “tôn thờ chính Đấng mà ảnh tượng thánh ấy diễn tả.”120

Trái tim của Ngôi Lời nhập thể (478)

478. 487, 368, 2669, 766

Trong cuộc đời của Người, trong lúc Người hấp hối và trong lúc Người chịu khổ nạn, Chúa Giê-su biết và yêu thương mọi người và từng người chúng ta, và Người đã tự hiến mạng vì mỗi người chúng ta. Con Thiên Chúa “đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Người đã yêu mến tất cả chúng ta bằng một trái tim nhân loại. Do đó, Trái Tim cực thánh của Chúa Giê-su, bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta và để cứu độ chúng ta,121 “được coi là dấu chỉ và biểu tượng đặc biệt của tình yêu, qua đó Đấng Cứu Chuộc thần linh hằng liên lỉ yêu mến Chúa Cha vĩnh cửu và yêu mến tất cả mọi người.”122

Tóm lược (479-483)

479. Vào thời gian Thiên Chúa đã định, Con Một của Chúa Cha, là Ngôi Lời vĩnh cửu và là hình ảnh bản thể của Chúa Cha, đã nhập thể: Người đã đảm nhận bản tính nhân loại mà không mất đi bản tính Thiên Chúa.

480. Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật trong sự duy nhất của Ngôi Vị Thiên Chúa của Người; vì vậy, Người là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người.

481. Chúa Giê-su Ki-tô có hai bản tính, thần tính và nhân tính, không lẫn lộn, nhưng kết hợp trong Ngôi Vị duy nhất của Con Thiên Chúa.

482. Vì là Thiên Chúa thật và là người thật, Đức Ki-tô có một tri thức và một ý muốn nhân loại, hoàn toàn hòa hợp và quy phục tri thức và ý muốn thần linh của Người, mà Người có chung với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

483. Vì vậy, Nhập Thể là mầu nhiệm kỳ diệu của sự kết hợp giữa bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại trong Ngôi Vị duy nhất của Ngôi Lời.


Chú thích

79 DS 150.

80 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, Oratio catechetica 15,3: TD 7,78 (PG 45,48).

81 X. Đnl 6,4-5.

82 X. Mc 8,34.

83 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 19, 1: SC 211,374 (PG 7,939).

84 Thánh A-tha-na-si-ô Alexandrinô, De Incarnatione, 54, 3: SC 199,458 (PG 25,192).

85 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Officium de festo corporis Christi, Ad Matutinas, In primo Nocturno, Lectio 1: Opera omnia, v.29 (Parisiis 1876) 336.

86 X. Thánh ca Kinh Chiều I Chúa Nhật: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1, p. 545.629.718 et 808; v.2, p. 844.937.1037 et 1129; v.3, p. 548.669.793 et 916; v.4, p. 496.617.741 et 864 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973-1974).

87 X. 1 Ga 4,2-3; 2 Ga 7.

88 Tín biểu Ni-xê-a: DS 125.

89 CĐ Ni-xê-a, Epistula synodalis “Epeidê tês” ad Aegyptios: DS 130.

90 Tín biểu Ni-xê-a: DS 126.

91 CĐ Ê-phê-xô, Epistula II Cyrilli Alexandrini ad Nestorium: DS 250.

92 CĐ Ê-phê-xô, Epistula II Cyrilli Alexandrini ad Nestorium: DS 251.

93 X. Dt 4,15.

94 CĐ Chalcêđônia, : DS 301-302.

95 CĐ Constantinôpôli II, Sess. 8a. Canon 4: DS 424.

96 X. CĐ Ê-phê-xô, Anathematismi Cyrilli Alexandrini, 4: DS 255.

97 X. CĐ Constantinôpôli II, Sess. 8a. Canon 3: DS 423.

98 X. CĐ Constantinôpôli II, Sess. 8a. Canon 10: DS 432.

99 Lễ trọng kính Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa, Điệp ca kinh “Benedictus”: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 394; x. Thánh Lê-ô Cả, Sermo 21, 2: CCL 138,87 (PL 54,192).

100 Officium Horarum Byzantinum, Hymnus “Ho monogenês: Opologion to mega” (Romae 1876) 82.

101 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.

102 X. Ga 14,9-10.

103 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042-1043.

104 X. Thánh Đamasô I, Epistula Oti te apostolike kathedra: DS 149.

105 X. Mc 6,38; 8,27; Ga 11,34.

106 X. Pl 2,7.

107 X. Thánh Grêgôriô Cả, Epistula Sicut aqua: DS 475.

108 Thánh Ma-xi-mô Hiển tu, Quaestiones et dubia, Q.I, 67: CCG 10,155 (66: PG 90,840).

109 X. Mc 14,36; Mt 11,27; Ga 1,18; 8,55.

110 X. Mc 2,8; Ga 2,25; 6,61.

111 X. Mc 8,31; 9,31;10,33-34; 14,18-20.26-30.

112 X. Mc 13,32.

113 X. Cv 1,7.

114 X. CĐ Constantinôpôli III (năm 681), Sess. 18a, Definitio de duabus in Christo voluntatibus et operationibus: DS 556-559.

115 CĐ Constantinôpôli III, Sess. 18a, Definitio de duabus in Christo voluntatibus et operationibus: DS 556.

116 X. CĐ La-tê-ra-nô (năm 649), Canon 4: DS 504.

117 X. Gl 3,1.

118 CĐ Ni-xê-a II (năm 787), Act. 7a, Definitio de sacris imaginibus: DS 600-603.

119 Kinh Tiền Tụng Lễ Giáng Sinh, IISách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 396.

120 CĐ Ni-xê-a II, Act. 7a, Definitio de sacris imaginibus: DS 601.

121 X. Ga 19,34.

122 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Haurietis aquas: DS 3924; x. Ibid., Thông điệp Mystici corporis: DS 3812.

 

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

I. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai (484-486)

484. 461, 721

Biến cố Truyền tin cho Đức Ma-ri-a mở đầu “thời gian tới hồi viên mãn” (Gl 4,4), nghĩa là, lúc hoàn thành các lời hứa và các sự chuẩn bị. Đức Ma-ri-a được mời gọi cưu mang Đấng mà nơi Người “tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9). Lời phúc đáp thần linh cho vấn nạn của Mẹ: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34) đã được đưa ra là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” (Lc 1,35).

485. 689, 723

Sứ vụ của Chúa Thánh Thần luôn luôn được kết hợp với sứ vụ của Chúa Con và quy hướng về sứ vụ của Chúa Con.123 Chúa Thánh Thần, là “Chúa và là Đấng ban sự sống”, được sai đến để thánh hóa cung lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và làm cho Mẹ thụ thai một cách thần linh, khi tác động để Mẹ cưu mang Con vĩnh cửu của Chúa Cha trong nhân tính được đảm nhận từ nhân tính của Mẹ.

486. 437

Con Một của Chúa Cha, với tư cách một con người được thụ thai trong cung lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, là “Đức Ki-tô”, nghĩa là Đấng được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần,124 từ lúc khởi đầu sự hiện hữu nhân loại của Người, mặc dù việc Người tỏ mình ra sẽ được thực hiện dần dần: cho các mục đồng,125 cho các đạo sĩ,126 cho ông Gio-an Tẩy giả,127 cho các môn đệ.128 Vì vậy, toàn bộ cuộc đời của Chúa Giê-su Ki-tô sẽ biểu lộ “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38) như thế nào.

II. Sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh (487-507)

487. 963

Những gì đức tin Công giáo tin về Mẹ Ma-ri-a, đều đặt nền tảng trên những gì đức tin đó tin về Đức Ki-tô, nhưng những gì đức tin dạy về Mẹ Ma-ri-a, lại làm sáng tỏ đức tin vào Đức Ki-tô.

Đức Ma-ri-a được tiền định (488-489)

488. “Thiên Chúa đã sai Con mình tới” (Gl 4,4), nhưng để tạo một thân xác129 cho Người, Thiên Chúa đã muốn có sự tự do cộng tác của một thụ tạo. Với mục đích ấy, từ muôn đời Thiên Chúa đã chọn, để làm Mẹ của Con mình, một người con gái Ít-ra-en, một thiếu nữ Do-thái ở Na-da-rét miền Ga-li-lê, “một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít, trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a” (Lc 1,26-27):

“Chúa Cha rất nhân từ đã muốn có sự ưng thuận của người Mẹ đã được tiền định, trước khi Chúa Con nhập thể, để như vậy, một người nữ đã mang đến sự chết như thế nào, thì một người nữ cũng sẽ mang lại sự sống như vậy.”130

489. 722, 410, 145, 64

Suốt thời Cựu Ước, sứ vụ của Đức Ma-ri-a đã được chuẩn bị bởi sứ vụ của những phụ nữ thánh thiện. Ngay từ đầu, là bà E-và: bất chấp sự bất tuân phục của mình, bà đã nhận được Lời Hứa rằng một hậu duệ của bà sẽ chiến thắng ma quỷ131 và Lời Hứa rằng bà sẽ là mẹ của tất cả chúng sinh.132 Do lời hứa đó, bà Xa-ra, mặc dù đã cao niên, vẫn thụ thai một người con trai.133 Trái với mọi niềm hy vọng nhân loại, Thiên Chúa đã chọn những gì bị coi như bất lực và yếu đuối134 để chứng tỏ Ngài luôn trung tín với lời Ngài đã hứa: bà An-na, mẹ của tiên tri Sa-mu-en,135 bà Đơ-vô-ra, bà Rút, bà Giu-đi-tha, bà Ét-te và nhiều phụ nữ khác. Đức Ma-ri-a “trổi vượt giữa những người khiêm hạ và nghèo hèn của Chúa, những người hy vọng và đón nhận ơn cứu độ từ nơi Ngài với lòng tin tưởng. Cuối cùng, sau sự trông đợi lâu dài Lời Chúa đã hứa, thời gian đã đến hồi viên mãn và một Nhiệm cục mới đã bắt đầu với Đức Ma-ri-a, người Con Gái Xi-on cao trọng nhất.”136

Vô nhiễm nguyên tội (490-493)

490. 2676, 2853, 2001

Để làm Mẹ Đấng Cứu độ, Đức Ma-ri-a “đã được Chúa ban cho các hồng ân xứng với nhiệm vụ cao cả ấy.”137 Lúc Truyền tin, thiên thần Gáp-ri-en đã chào Mẹ là “người đầy ơn phúc.”138 Thật vậy, Mẹ cần được hướng dẫn hoàn toàn bởi ân sủng của Thiên Chúa, để có thể đáp lại lời loan báo ơn gọi của mình bằng sự ưng thuận tự do của đức tin.

Bài này đã được xem 5693 lần!

Pages ( 18 of 96 ): <1 ... 1617 18 1920 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]