491. 411
Qua các thế kỷ, Hội Thánh đã ý thức rằng Đức Ma-ri-a, vì được Thiên Chúa ban cho “đầy ơn phúc”,139 nên được cứu chuộc ngay từ lúc tượng thai. Tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, do Đức Giáo Hoàng Pi-ô IX công bố năm 1854, tuyên xưng:
“Rất Thánh Trinh Nữ Ma-ri-a ngay từ lúc đầu tiên tượng thai, bởi ân sủng và đặc ân của Thiên Chúa toàn năng, trông vào công nghiệp của Đức Ki-tô Giê-su Đấng Cứu độ loài người, đã được gìn giữ tinh tuyền khỏi mọi vết nhơ của nguyên tội.”140
492. 2011, 1077
Những ánh rạng ngời này của “một sự thánh thiện hoàn toàn độc nhất vô nhị”, đã được ban cho Mẹ “ngay từ lúc đầu tiên tượng thai”,141 tất cả đều từ Đức Ki-tô mà đến với Mẹ: Mẹ đã “được cứu chuộc cách hết sức kỳ diệu nhờ xét đến công nghiệp Con Mẹ.”142 Chúa Cha đã “thi ân giáng phúc” cho Mẹ, hơn bất cứ thụ tạo nào khác, cho Mẹ “hưởng muôn vàn ân phúc của Thánh Thần, từ cõi trời, trong Đức Ki-tô” (Ep 1,3). Ngài “đã chọn” Mẹ “trong Đức Ki-tô, trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Ngài”, Mẹ “trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài” (x. Ep 1,4).
493. Các Giáo phụ thuộc truyền thống Đông phương gọi Mẹ Thiên Chúa là Đấng Toàn Thánh (Panaghia) và tôn vinh Mẹ là “Đấng không hề vương nhiễm một vết nhơ tội lỗi nào, như thể một tạo vật mới được Chúa Thánh Thần nắn đúc và tạo dựng.”143 Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a suốt đời vẫn tinh tuyền không hề phạm một tội riêng nào.
“Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói…” (494)
494. 2617, 148, 968, 726
Khi được loan báo rằng, mặc dù không biết người nam, mình sẽ hạ sinh “Con Đấng Tối Cao”, bởi quyền năng Chúa Thánh Thần,144 Đức Ma-ri-a tin chắc chắn rằng, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, nên với “sự vâng phục của đức tin”,145 Mẹ đã trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,37-38). Như vậy, khi nói lên sự ưng thuận của mình đối với lời Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a trở thành Mẹ Chúa Giê-su và với trọn tâm hồn, Mẹ chấp nhận ý định cứu độ của Thiên Chúa, mà không tội lỗi nào ngăn cản Mẹ, Mẹ tự hiến hoàn toàn cho con người và công trình của Con Mẹ, để, một cách tùy thuộc vào Người và cùng với Người, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, Mẹ phục vụ mầu nhiệm Cứu Chuộc.146 Thánh I-rê-nê nói: “Nhờ vâng phục, Đức Mẹ đã trở nên nguyên nhân ơn cứu độ cho chính mình và cho toàn thể nhân loại.”147 Từ đó, cùng với thánh nhân, nhiều Giáo phụ xưa cũng giảng dạy rằng: “Nút dây do sự bất tuân của bà E-và thắt lại, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Ma-ri-a; điều mà trinh nữ E-và đã buộc lại do sự cứng lòng tin, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã tháo ra nhờ đức tin”;148 và so sánh với bà E-và, các ngài gọi Đức Ma-ri-a là “Mẹ chúng sinh”, và rất thường quả quyết rằng: “Sự chết qua bà E-và, sự sống qua Đức Ma-ri-a.”149
Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa (495)
495. 466, 2677
Trong các sách Tin Mừng, Đức Ma-ri-a được gọi là “Thân mẫu Chúa Giê-su” (Ga 2,l; l9,25).150 Cả trước khi Con Mẹ chào đời, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã được gọi là “Thân mẫu Chúa tôi” (Lc 1,43). Quả thật, Đấng mà Mẹ đã cưu mang làm người bởi phép Chúa Thánh Thần, Đấng thật sự là Con Mẹ theo xác phàm, chính là Con vĩnh cửu của Chúa Cha, là Ngôi Hai trong Ba Ngôi chí thánh. Vì vậy, Hội Thánh tuyên xưng Đức Ma-ri-a thật sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).151
Sự đồng trinh của Đức Ma-ri-a (496-498)
496. Ngay trong các công thức đức tin đầu tiên,152 Hội Thánh đã tuyên xưng rằng Chúa Giê-su được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là chỉ do quyền năng của Chúa Thánh Thần mà thôi, và Hội Thánh cũng khẳng định khía cạnh thể lý của biến cố này: Chúa Giê-su được thụ thai “bởi Chúa Thánh Thần, không có mầm giống nam nhân.”153 Các Giáo Phụ nhận ra việc thụ thai đồng trinh là dấu chỉ của việc Con Thiên Chúa thật sự đã đến trong bản tính nhân loại như chúng ta. Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a (đầu thế kỷ II) dạy: “Tôi đã nhận thấy anh em… xác tín rằng Chúa chúng ta, thật sự xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít theo xác phàm,154 là Con Thiên Chúa theo ý định và quyền năng Thiên Chúa,155 Người đã thật sự được sinh ra bởi một trinh nữ;… Người đã thật sự chịu đóng đinh trong thân xác vì chúng ta, thời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô… Người đã thật sự chịu khổ hình cũng như đã thật sự sống lại.”156
497. Các trình thuật Tin Mừng157 hiểu việc thụ thai đồng trinh như một công trình của Thiên Chúa, vượt quá mọi hiểu biết và mọi khả năng nhân loại:158 Thiên thần đã nói với ông Giu-se về Đức Ma-ri-a, hiền thê của ông rằng: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Hội Thánh nhận ra đây là việc thực hiện lời hứa của Thiên Chúa qua miệng tiên tri I-sai-a: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai” (Is 7,l4), theo bản Hy-lạp của Mt 1,23.
498. 90, 2717
Đôi lúc, người ta lúng túng vì sự im lặng của Tin Mừng Marcô và các thư Tân Ước đối với việc thụ thai đồng trinh của Đức Ma-ri-a. Người ta cũng tự hỏi không biết đây có phải là huyền thoại hay là luận điểm thần học không chứng cớ lịch sử. Về vấn đề này, phải trả lời rằng: đức tin vào việc Mẹ Ma-ri-a thụ thai Chúa Giê-su mà còn đồng trinh, đã bị người Do-thái và lương dân vô tín chống đối mãnh liệt, chế diễu hoặc hiểu sai:159 đức tin đó không phát sinh từ huyền thoại ngoại giáo hoặc từ sự mô phỏng nào đó theo các ý tưởng đương thời. Ý nghĩa của biến cố này chỉ có thể hiểu được nhờ đức tin, khi nhìn biến cố đó “trong sự nối kết chính các mầu nhiệm với nhau”,160 nghĩa là trong toàn bộ các mầu nhiệm của Đức Ki-tô, từ việc Nhập Thể cho đến cuộc Vượt Qua của Người. Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a đã nêu rõ sự nối kết này: “Thủ lãnh thế gian không hề biết đến việc Đức Ma-ri-a đồng trinh, việc Mẹ sinh con cũng như việc Chúa chịu chết: ba mầu nhiệm này thật vẻ vang nhưng đã được Thiên Chúa âm thầm thực hiện.”161
Đức Ma-ri-a “trọn đời đồng trinh” (499-501)
499. Việc suy niệm sâu xa hơn trong đức tin về việc Đức Ma-ri-a đồng trinh mà làm mẹ, đã đưa Hội Thánh đến chỗ tuyên xưng Đức Ma-ri-a thật sự và trọn đời đồng trinh,162 cả trong khi sinh hạ Con Thiên Chúa làm người.163 Thật vậy, việc sinh hạ Đức Ki-tô “không làm suy giảm nhưng thánh hiến sự trinh khiết vẹn toàn” của Mẹ.164 Phụng vụ của Hội Thánh tôn vinh Mẹ là Aeiparthenos, “Đấng trọn đời đồng trinh.”165
500. Về điều này, đôi khi người ta phản đối rằng Thánh Kinh có nhắc đến các anh em và chị em của Chúa Giê-su.166 Hội Thánh vẫn luôn hiểu rằng những đoạn văn này không hề ám chỉ những người con khác của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a: ông Gia-cô-bê và ông Giu-se, “anh em của Chúa Giê-su” (Mt l3,55), thật ra là con của một bà Ma-ri-a nào đó là môn đệ của Đức Ki-tô,167 bà này được cẩn thận phân biệt là “bà Ma-ri-a khác” (Mt 28,l). Đây là những người anh em bà con họ hàng gần, theo như cách nói quen dùng trong Cựu Ước.168
501. 969, 970
Chúa Giê-su là người Con duy nhất của Đức Ma-ri-a. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ169 trải rộng cho hết mọi người đã được Chúa Giê-su đến cứu độ. “Người Con mà Mẹ sinh ra, Thiên Chúa đã đặt ‘làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc’ (Rm 8,29), tức là các tín hữu, mà Mẹ đã cộng tác vào việc sinh hạ và dạy dỗ họ với tình yêu từ mẫu.”170
Chức năng làm Mẹ đồng trinh của Đức Ma-ri-a trong kế hoạch của Thiên Chúa (502-507)
502. 90
Cái nhìn của đức tin, liên kết với toàn bộ Mặc Khải, có thể khám phá ra những lý do huyền nhiệm mà vì đó, Thiên Chúa, trong kế hoạch cứu độ của Ngài, đã muốn Con của Ngài sinh ra bởi một trinh nữ. Những lý do này liên quan đến Ngôi Vị và sứ vụ cứu chuộc của Đức Ki-tô, cũng như đến việc Đức Ma-ri-a chấp nhận góp phần vào sứ vụ này vì tất cả mọi người.
503. 422
Sự đồng trinh của Đức Ma-ri-a cho thấy mầu nhiệm Nhập Thể tuyệt đối do Thiên Chúa khởi xướng. Chúa Giê-su chỉ có Thiên Chúa là Cha.171 “Không bao giờ Người tách khỏi Chúa Cha vì con người mà Người đã đảm nhận… Một mình Người vừa là Con Thiên Chúa vừa là Con Người. Xét về mặt bản tính, Người là Con của Chúa Cha trên trời theo thần tính, là Con của Đức Ma-ri-a theo nhân tính; nhưng thật sự Người là Con Thiên Chúa trong hai bản tính.”172
504. 359
Chúa Giê-su được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a bởi phép Chúa Thánh Thần, bởi vì Người là A-đam mới173, người khởi đầu công trình tạo dựng mới: “Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến” (l Cr l5,47). Ngay từ lúc Người được thụ thai, nhân tính Đức Ki-tô đã tràn đầy Thần Khí, vì Thiên Chúa “ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn” (Ga 3,34). “Từ nguồn sung mãn của Người”, của Đấng là đầu của nhân loại được cứu chuộc174 mà “chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,l6).
505. 1265
Chúa Giê-su, A-đam mới, qua việc Người được thụ thai trong cung lòng đồng trinh, đã khởi đầu cuộc sinh hạ mới của những người được nhận làm nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần nhờ đức tin. “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” (Lc 1,34).175 Việc tham dự vào sự sống thần linh là điều “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,l3). Sự sống mới này được đón nhận cách trinh khiết, bởi vì nó được tặng ban cho con người, hoàn toàn do bởi Chúa Thánh Thần. Ý nghĩa phu thê của ơn gọi của con người đến với Thiên Chúa176 được thực hiện cách trọn hảo trong chức năng làm mẹ đồng trinh của Đức Ma-ri-a.
506. 148, 1814
Đức Ma-ri-a là một Trinh Nữ, bởi vì sự đồng trinh của Mẹ là dấu chỉ đức tin của Mẹ, một đức tin không pha trộn chút nghi ngờ nào177 và là dấu chỉ sự tự hiến trọn vẹn của Mẹ cho thánh ý Thiên Chúa.178 Chính nhờ đức tin mà Đức Ma-ri-a trở thành Mẹ Đấng Cứu độ: “Đức Ma-ri-a thật là diễm phúc vì Mẹ đã tin vào Đức Ki-tô hơn là vì Mẹ đã cưu mang thân xác Người.”179
507. 967, 149
Đức Ma-ri-a vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ, bởi vì Mẹ là hình ảnh của Hội Thánh, là sự thể hiện toàn hảo nhất của Hội Thánh.180 “Nhờ đón nhận lời Thiên Chúa cách trung thành, Hội Thánh được làm Mẹ: thật vậy, nhờ việc rao giảng và ban Phép Rửa, Hội Thánh sinh hạ những người con, được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, và được sinh ra bởi Thiên Chúa, để sống đời sống mới và bất tử. Và Hội Thánh là Trinh Nữ, bởi đã gìn giữ cách toàn vẹn và tinh tuyền lòng tin vào Đức Phu Quân.”181
Tóm lược (508-511)
508. Trong số các con cháu bà E-và, Thiên Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Ma-ri-a làm Mẹ của Con Ngài. Mẹ “đầy ơn phúc”, là “hoa trái tuyệt vời nhất của công trình Cứu chuộc.”182 Ngay từ lúc đầu tiên khi được thụ thai, Mẹ đã được gìn giữ tinh tuyền khỏi vết nhơ nguyên tội và suốt đời Mẹ, Mẹ vẫn luôn tinh tuyền không hề phạm một tội riêng nào.
509. Đức Ma-ri-a thật sự là “Mẹ Thiên Chúa” vì là Mẹ của Con vĩnh cửu của Thiên Chúa, đã làm người, Đấng cũng chính là Thiên Chúa.
510. Đức Ma-ri-a “vẫn còn đồng trinh khi thụ thai Con mình, đồng trinh khi sinh Con, đồng trinh khi bồng ẵm Người, đồng trinh khi cho Người bú mớm, là người mẹ đồng trinh, vĩnh viễn đồng trinh”:183 Mẹ là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38) bằng toàn bộ hữu thể của mình.
511. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã cộng tác vào “việc cứu độ nhân loại bằng đức tin và lòng tuân phục tự do.”184 Mẹ đã nói lên lời ưng thuận của mình “thay cho toàn thể bản tính nhân loại.”185 Nhờ sự vâng phục của mình, Mẹ đã trở thành bà E-và mới, là Mẹ của chúng sinh.
Chú thích
123 X. Ga 16,14-15.
124 X. Mt 1,20; Lc 1,35.
125 X. Lc 2,8-20.
126 X. Mt 2,1-12.
127 X. Ga 1,31-34.
128 X. Ga 2,11.
129 X. Dt 10,5.
130 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 56: AAS 57 (1965) 60; x. Ibid., 61: AAS 57 (1965) 63.
131 X. St 3,l5.
132 X. St 3,20.
133 X. St 18,10-14; 21,1-2.
134 X. 1 Cr 1,27.
135 X. 1 Sm 1.
136 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 55: AAS 57 (1965) 59-60.
137 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 56: AAS 57 (1965) 60.
138 X. Lc 1,28.
139 X. Lc 1,28.
140 ĐGH Pi-ô IX, Tông sắc Ineffabilis Deus: DS 2803.
141 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 56: AAS 57 (1965) 60.
142 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 53: AAS 57 (1965) 58.
143 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 56: AAS 57 (1965) 60.
144 X. Lc 1,28-37.
145 X. Rm 1,5.
146 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 56: AAS 57 (1965) 60-61.
147 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 22, 4: SC 211,440 (PG 7,959).
148 X. Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 22, 4: SC 211,442-444 (PG 7,959-960).
149 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 56: AAS 57 (1965) 60-61.
150 X. Mt 13,55.
151 X. CĐ Ê-phê-xô, Epistula II Cyrilli Alexandrini ad Nestorium: DS 251.
152 X. DS 10-64.
153 CĐ La-tê-ra-nô (năm 649), Canon 3: DS 503.
154 X. Rm 1,3.
155 X. Ga 1,13.
156 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Smyrnaeos, 1-2: SC 10bis, 132-134 (Funk 1,274-276).
157 X. Mt 1,18-25; Lc 1,26-38.
158 X. Lc 1,34.
159 X. Thánh Giustinô, Dialogus cum Triphone Iudaeo, 66-67: CA 2,234-236 (PG 6,628-629); Ôrigiênê, Contra Celsum, 1,32: SC 132,162-164 (PG 8,720-724); Ibid., 1, 69: SC 132,270 (PG 8,788-789).
160 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 4: DS 3016.
161 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Ephesos, 19,1: SC 10bis, 74 (Funk 1,228); x. 1 Cr 2,8.
162 X. CĐ Constantinôpôli II, Sess. 8a, Canon 6: DS 427.
163 X. Thánh Lê-ô Cả, Tomus ad Flavianum: DS 291; Ibid.: DS 294; Pelagius I, Epistula Humani Generis: DS 442; CĐ La-tê-ra-nô, Canon 3: DS 503; CĐ Tôlêđô XVI, : DS 571; ĐGH Phao-lô IV, Tông hiến Cum quorumdam hominum: DS 1880.
164 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 57: AAS 57 (1965) 61.
165 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 52: AAS 57 (1965) 58.
166 X. Mc 3,31-35; 6,3; 1 Cr 9,5; Gl 1,19.
167 X. Mt 27,56.
168 X. St l3,8; l4,l6; 29,l5 v.v…
169 X. Ga 19,26-27; Kh 12,17.
170 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 63: AAS 57 (1965) 64.
171 X. Lc 2,48-49.
172 CĐ Frioul (năm 796 hoặc 797), : DS 619.
173 X. 1 Cr 15,45.
174 X. Cl 1,18.
175 X. Ga 3,9.
176 X. 2 Cr 11,2.
177 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 63: AAS 57 (1965) 64.
178 X. 1 Cr 7,34-35.
179 Thánh Augustinô, De sancta virginitate 3, 3: CSEL 41,237(PG 40,398).
180 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 63: AAS 57 (1965) 64.
181 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 64: AAS 57 (1965) 64.
182 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 103: AAS 56 (1964) 125.
183 Thánh Augustinô, Sermo 186, 1: PL 38,999.
184 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 56: AAS 57 (1965) 60.
185 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 30, a. 1, c: Ed. Leon. 11, 315.
Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)
512. 1163
Khi đề cập đến cuộc đời Đức Ki-tô, Tín biểu chỉ nói về các mầu nhiệm Nhập Thể (được thụ thai và ra đời) và Vượt Qua (chịu khổ nạn, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chết, chịu mai táng, xuống ngục tổ tông, sống lại, và lên trời). Tín biểu không nói gì cách minh nhiên về các mầu nhiệm của cuộc đời ẩn dật và công khai của Chúa Giê-su; tuy nhiên, các đề mục đức tin liên quan đến việc Nhập Thể và cuộc Vượt Qua của Chúa Giê-su, lại làm sáng tỏ toàn bộ cuộc đời trần thế của Người. “Tất cả những việc Chúa Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời” (Cv 1,1-2), cần phải được nhìn xem dưới ánh sáng các mầu nhiệm Giáng Sinh và Phục Sinh.
513. 426, 561
Tùy theo hoàn cảnh, việc dạy giáo lý sẽ trình bày tất cả sự phong phú của các mầu nhiệm của Chúa Giê-su. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu lên một số yếu tố chung cho tất cả mọi mầu nhiệm của cuộc đời của Người (I), rồi sau đó phác họa các mầu nhiệm chính yếu trong cuộc đời ẩn dật (II) và công khai (III) của Chúa Giê-su.
I. Toàn bộ cuộc đời Chúa Giê-su là mầu nhiệm (514-521)
514. Có nhiều điều liên quan đến Chúa Giê-su mà loài người tò mò muốn biết, nhưng lại không được các sách Tin Mừng nói đến. Tin Mừng hầu như không nói gì về cuộc sống của Người ở Na-da-rét, và một phần lớn cuộc đời công khai của Người cũng không được kể lại.186 Những gì đã được viết ra trong các Tin Mừng, được kể lại là “để anh em tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
515. 126, 609, 774, 477
Các sách Tin Mừng đã được viết ra bởi những người trong số những người đầu tiên đã có đức tin,187 và muốn cho những người khác được tham dự vào đức tin đó. Đã được biết Chúa Giê-su là ai trong đức tin, họ có thể thấy và chỉ cho người khác thấy những dấu tích của mầu nhiệm của Người trong suốt cuộc đời trần thế của Người. Từ những mảnh tã quấn thân ngày Người Giáng Sinh,188 cho đến chút giấm lúc Người chịu khổ hình,189 và tấm khăn liệm ngày Người Phục Sinh,190 mọi sự trong cuộc đời Chúa Giê-su đều là dấu chỉ của mầu nhiệm của Người. Qua những cử chỉ, những phép lạ, những lời nói của Người, Người mặc khải “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9). Như vậy, nhân tính của Người xuất hiện như một “bí tích”, nghĩa là, một dấu chỉ và dụng cụ của thần tính của Người, và của ơn cứu độ mà Người mang lại: những gì hữu hình trong cuộc đời trần thế của Người, dẫn chúng ta đến với mầu nhiệm vô hình, là địa vị làm Con Thiên Chúa của Người và sứ vụ cứu chuộc của Người.
Những nét chung của các mầu nhiệm của Chúa Giê-su (516-518)
516. 65, 2708
Cả cuộc đời của Đức Ki-tô là một Mặc khải về Chúa Cha: những lời Người nói, những việc Người làm, những lúc Người im lặng, những đau khổ Người chịu, cách thế Người sống và giảng dạy. Chúa Giê-su có thể nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga l4,9), và Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Vì Chúa chúng ta đã làm người để chu toàn thánh ý của Chúa Cha,191 nên ngay cả những điểm nhỏ nhặt nhất trong các mầu nhiệm của Người đều biểu lộ cho chúng ta thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.192
517. 606, 1115
Cả cuộc đời của Đức Ki-tô là một mầu nhiệm Cứu chuộc. Ơn Cứu chuộc đến với chúng ta trước hết nhờ Máu Người đổ ra trên thập giá,193 nhưng mầu nhiệm này được thực hiện qua cả cuộc đời Đức Ki-tô:
– ngay trong việc Người Nhập Thể, Người đã trở nên nghèo để lấy cái nghèo của Người mà làm cho chúng ta nên giàu có;194
– trong cuộc sống ẩn dật, Người vâng phục195 để sửa lại sự bất phục tùng của chúng ta;
– khi giảng dạy, lời Người nói thanh tẩy những người nghe;196
– khi chữa bệnh và trừ quỷ, “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta, và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17);197
– khi phục sinh, Người làm cho chúng ta được nên công chính.198
518. 668, 2748
Cả cuộc đời của Đức Ki-tô là một mầu nhiệm Quy tụ: tất cả những gì Chúa Giê-su đã làm, đã nói, và đã chịu đau khổ, đều có mục đích là để phục hồi con người sa ngã về lại ơn gọi đầu tiên của họ:
“Khi nhập thể và làm người, Đức Ki-tô đã quy tụ nơi mình lịch sử lâu dài của nhân loại, và đã đem lại ơn cứu độ cho chúng ta theo con đường tắt, để những gì xưa kia chúng ta đã mất nơi A-đam, tức là không còn là hình ảnh và giống như Thiên Chúa nữa, thì nay chúng ta được nhận lại trong Đức Ki-tô Giê-su.”199 “Chính vì thế, Đức Ki-tô đã trải qua mọi tuổi đời, để cho mọi người lại được hiệp thông với Thiên Chúa.”200
Bài này đã được xem 5713 lần!