Chúng ta hiệp thông với các mầu nhiệm của Chúa Giê-su (519-521)
519. 793, 602, 1085
Mọi sự phong phú của Đức Ki-tô là dành cho mọi người và là tài sản của mọi người.201 Đức Ki-tô không sống cho bản thân Người, nhưng cho chúng ta, từ lúc Người nhập thể “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”,202 cho đến khi Người chịu chết “vì tội lỗi chúng ta” (1 Cr 15,3) và sống lại “để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25). Cả bây giờ nữa, Người vẫn là trạng sư của chúng ta “trước mặt Chúa Cha” (1 Ga 2,1), “vì Người hằng sống để chuyển cầu” cho chúng ta (Dt 7,25). Với tất cả những gì Người đã sống và đã chịu đựng một lần cho mãi mãi vì chúng ta, giờ đây Người luôn hiện diện “trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9,24) đến muôn đời.
520. 459, 359, 2607
Trong cả cuộc đời của Người, Chúa Giê-su tỏ mình là mẫu mực của chúng ta:203 chính Người là “con người hoàn hảo”,204 Người mời gọi chúng ta trở nên môn đệ của Người và bước đi theo Người; qua việc tự hạ của Người, Người ban cho chúng ta một gương mẫu để bắt chước;205 qua việc cầu nguyện của Người, Người lôi kéo chúng ta cầu nguyện;206 qua sự nghèo khó của Người, Người kêu gọi chúng ta tự nguyện chấp nhận sự thiếu thốn và những cơn bách hại.207
521. 2715, 1391
Tất cả những gì chính Người đã sống, Đức Ki-tô làm cho chúng ta được sống những điều đó trong Người, và Người sống những điều đó trong chúng ta. “Khi nhập thể, Con Thiên Chúa một cách nào đó đã nên một với mọi người.”208 Chúng ta được kêu gọi nên một với Người; chính Người làm cho chúng ta, với tư cách là những chi thể của Thân Thể Người, được hiệp thông với những gì Người đã sống trong thân thể Người vì chúng ta và nên như mẫu mực cho chúng ta:
Chúng ta phải tiếp nối và hoàn thành nơi bản thân chúng ta các giai đoạn của cuộc đời Chúa Giê-su và các mầu nhiệm của Người, và thường xuyên cầu xin… để Người hoàn tất và kiện toàn những điều ấy trong chúng ta và trong toàn thể Hội Thánh Người… Vì Con Thiên Chúa có ý truyền thông, mở rộng và tiếp tục các mầu nhiệm của Người trong chúng ta và trong toàn thể Hội Thánh Người,… hoặc bằng các ân sủng Người quyết định ban cho chúng ta hoặc bằng những hiệu quả Người muốn thực hiện nơi chúng ta qua các mầu nhiệm ấy. Bằng cách này, Người muốn hoàn tất các mầu nhiệm của Người trong chúng ta.209
II. Các mầu nhiệm của thời thơ ấu và của cuộc đời ẩn dật của Chúa Giê-su (522-534)
Những sự chuẩn bị (522-524)
522. 711, 762
Việc Con Thiên Chúa ngự đến trong thế gian là một biến cố hết sức trọng đại, đến độ Thiên Chúa đã muốn chuẩn bị cho biến cố đó qua nhiều thế kỷ. Các nghi thức và các hy lễ, các hình ảnh và các biểu tượng của “Giao Ước Cũ”,210 tất cả đều được Thiên Chúa làm cho hội tụ trong Đức Ki-tô: Chính Ngài loan báo Đức Ki-tô qua miệng các Tiên tri kế tiếp nhau ở Ít-ra-en. Ngoài ra, Ngài còn khơi dậy trong tâm hồn các người ngoại giáo một sự chờ đợi chưa rõ ràng việc Con Thiên Chúa ngự đến.
523. 717-720
Thánh Gio-an Tẩy Giả là vị Tiền Hô trực tiếp của Chúa,211 đã được sai đến để dọn đường.212 Thánh nhân là “ngôn sứ của Đấng Tối Cao” (Lc 1,76), trổi vượt tất cả mọi Tiên tri,213 và là vị Tiên tri cuối cùng.214 Thánh nhân khởi đầu Tin Mừng;215 ngay từ trong lòng mẹ đã đón chào Đức Ki-tô đến,216 và tìm thấy niềm vui trong việc được làm “bạn của chú rể” (Ga 3,29), Đấng mà thánh nhân chỉ cho biết là Chiên “Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Thánh nhân đi trước Chúa Giê-su trong “thần trí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a” (Lc 1,17), và làm chứng cho Người bằng lời rao giảng của mình, bằng phép rửa thống hối của mình và cuối cùng bằng cuộc tử đạo của mình.217
524. 1171
Mỗi năm khi cử hành phụng vụ Mùa Vọng, Hội Thánh thể hiện lại niềm mong đợi Đấng Mê-si-a: khi hiệp thông với sự chuẩn bị lâu dài để đón Đấng Cứu độ ngự đến lần thứ nhất, các tín hữu canh tân lòng sốt sắng đón chờ Người ngự đến lần thứ hai.218 Khi mừng sinh nhật và cuộc tử đạo của vị Tiền Hô, Hội Thánh hợp nhất với ước nguyện của thánh nhân: “Đức Ki-tô phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Mầu nhiệm Giáng Sinh (525-526)
525. 437, 2443
Chúa Giê-su đã ra đời trong cảnh bần hàn của chuồng bò lừa, trong một gia đình nghèo;219 các mục đồng chất phác là những chứng nhân đầu tiên của biến cố. Chính trong cảnh nghèo hèn này mà vinh quang thiên quốc được tỏ lộ.220 Hội Thánh không ngừng hoan hỉ hát mừng vinh quang đêm ấy:
“Hôm nay Đức Trinh Nữ sinh hạ Đấng Hằng Hữu,
và thế gian dâng tặng hang đá cho Đấng Chí Tôn.
Các Thiên thần cùng với các mục đồng tôn vinh Người,
các đạo sĩ tiến bước theo ánh sao:
bởi vì một Hài Nhi bé nhỏ, là Thiên Chúa vĩnh cửu,
đã được sinh ra cho chúng ta!”221
526. 460
“Trở nên trẻ nhỏ” trong tương quan với Thiên Chúa là điều kiện để vào Nước Trời;222 để được vậy, cần phải tự hạ,223 phải trở nên bé mọn; hơn nữa, còn phải “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (Ga 3,7), được sinh ra từ Thiên Chúa224 để trở nên con cái Thiên Chúa.225 Mầu nhiệm Giáng Sinh được thực hiện nơi chúng ta khi Đức Ki-tô “được thành hình” nơi chúng ta.226 Việc Giáng Sinh của Chúa Giê-su là mầu nhiệm của “việc trao đổi kỳ diệu” này:
“Cuộc trao đổi sao mà kỳ diệu! Đấng Tạo hóa của nhân loại, nhận lấy một thân xác có linh hồn, khấng hạ sinh bởi một Trinh Nữ; khi làm người mà chẳng cần mầm giống nam nhân, Người đã rộng ban cho chúng ta thần tính của Người.”227
Các mầu nhiệm của thời thơ ấu của Chúa Giê-su (527-530)
527. 580, 1214
Việc cắt bì cho Chúa Giê-su, ngày thứ tám sau khi Người ra đời,228 là dấu chỉ việc Người được tháp nhập vào dòng dõi của tổ phụ Áp-ra-ham, vào dân của Giao Ước, là dấu chỉ sự suy phục Lề luật của Người,229 của việc Người đến với phụng tự Ít-ra-en, nền phụng tự mà Người sẽ tham dự suốt đời Người. Dấu chỉ này báo trước “phép cắt bì của Đức Ki-tô”, tức là bí tích Rửa Tội.230
528. 439, 711-716, 122
Hiển Linh là sự tỏ mình ra của Chúa Giê-su, như Đấng Mê-si-a của Ít-ra-en, là Con Thiên Chúa, và là Đấng Cứu Độ trần gian. Cùng với việc Chúa Giê-su chịu phép rửa ở sông Jorđanô và với tiệc cưới Ca-na,231 lễ này mừng kính việc “các đạo sĩ” từ phương Đông đến thờ lạy Chúa Giê-su.232 Nơi các “đạo sĩ” này, là đại diện cho các tôn giáo lương dân lân cận, Tin Mừng nhận ra những hoa quả đầu mùa của các dân tộc sẽ đón nhận Tin Mừng cứu độ nhờ mầu nhiệm Nhập Thể. Việc các đạo sĩ đến Giê-ru-sa-lem để bái lạy Vua dân Do-thái233 cho thấy các vị ấy đến Ít-ra-en, dưới ánh sáng tiên báo Đấng Mê-si-a của ngôi sao Đa-vít,234 để tìm kiếm Đấng sẽ là vua của các dân tộc.235 Việc họ đến có nghĩa là các dân ngoại chỉ có thể gặp được Chúa Giê-su và thờ lạy Người là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ trần gian, bằng cách hướng về dân Do-thái236 và nhờ dân ấy mà lãnh nhận lời hứa về Đấng Mê-si-a như đã được ghi chép trong Cựu Ước.237 Cuộc Hiển Linh cho thấy đông đảo dân ngoại được gia nhập vào gia đình của các Tổ Phụ,238 và được hưởng “phẩm giá của Ít-ra-en.”239
529. 583, 439, 614
Việc dâng Chúa Giê-su vào Đền thờ240 cho thấy Người có tư cách là “con đầu lòng” thuộc về Thiên Chúa như sở hữu riêng của Ngài.241 Cùng với ông Simêon và bà An-na, toàn thể dân Ít-ra-en đến gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông chờ (truyền thống Byzantin gọi biến cố này như vậy). Chúa Giê-su được nhìn nhận là Đấng Mê-si-a được mong đợi đã quá lâu, là “ánh sáng muôn dân”, là “vinh quang của Ít-ra-en”, nhưng cũng là “dấu hiệu cho người đời chống báng.” Lưỡi gươm của đau khổ được tiên báo cho Đức Ma-ri-a, loan báo một việc dâng hiến khác, hoàn hảo và duy nhất, là việc dâng hiến trên thập giá, việc dâng hiến này sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa “đã dành sẵn cho muôn dân.”
530. 574
Việc trốn sang Ai Cập và sự kiện tàn sát trẻ vô tội242 cho thấy sự chống đối của bóng tối đối với ánh sáng: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Cả cuộc đời của Đức Ki-tô sẽ được ghi dấu bằng sự bách hại. Những ai thuộc về Người, đều tham dự vào điều đó với Người.243 Việc Người rời bỏ Ai Cập để trở về244 gợi nhớ cuộc Xuất Hành245 và giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng giải phóng tối hậu.
Các mầu nhiệm của quãng đời ẩn dật của Chúa Giê-su (531-534)
531. 2427
Phần lớn cuộc đời Người, Chúa Giê-su đã chia sẻ thân phận của đại đa số con người: một cuộc sống thường ngày không có vẻ cao trọng nào, một cuộc sống lao động tay chân, một cuộc sống suy phục Luật Thiên Chúa trong Do-thái giáo,246 một cuộc sống trong cộng đoàn. Về toàn bộ quãng đời này, chúng ta được mặc khải là Chúa Giê-su đã vâng phục cha mẹ Người247 và “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn, và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
532. 2214-2220, 612
Sự vâng phục của Chúa Giê-su đối với Mẹ Người và cha nuôi của Người là chu toàn cách trọn hảo điều răn thứ tư. Sự vâng phục ở trần gian là hình ảnh của sự vâng phục con thảo của Người đối với Cha trên trời của Người. Việc Chúa Giê-su hằng ngày vâng phục thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a loan báo và tham dự trước vào sự tuân phục của lời cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng cho ý con thể hiện…” (Lc 22,42). Sự vâng phục của Đức Ki-tô trong các hoàn cảnh thường ngày của cuộc đời ẩn dật đã khởi đầu công trình tái tạo những gì mà ông A-đam đã phá hủy vì bất tuân.248
533. 2712, 2204, 2427
Cuộc đời ẩn dật ở Na-da-rét cho phép mọi người hiệp thông với Chúa Giê-su qua những lối sống thông thường nhất:
“Ngôi nhà Na-da-rét là mái trường nơi chúng ta bắt đầu học về cuộc đời Chúa Giê-su; đây là trường dạy Tin Mừng. Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước gì chúng ta biết quý chuộng sự thinh lặng, vì đó là bầu khí tuyệt vời và tối cần cho tâm hồn… Kế đến là bài học về đời sống gia đình: Ước gì Na-da-rét dạy chúng ta biết gia đình là gì, sự hiệp thông tình yêu của gia đình là gì, vẻ đẹp quan trọng và bừng sáng của gia đình là gì, tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình là gì… Sau cùng là bài học về lao động. Ôi Na-da-rét, ngôi nhà của “Con bác thợ mộc”, chính tại đây, chúng ta muốn hiểu biết và đề cao bổn phận lao động của con người, tuy nhọc nhằn nhưng đem lại ơn cứu chuộc… Sau hết, tại đây chúng tôi muốn chào mừng mọi người lao động trên toàn thế giới, và chỉ cho họ một mẫu mực vĩ đại, là người anh thần linh của họ.”249
534. 583, 2599, 964
Việc tìm thấy Chúa Giê-su trong Đền thờ250 là biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng của các sách Tin Mừng về những năm tháng ẩn dật của Chúa Giê-su. Ở đây, Chúa Giê-su cho chúng ta thoáng thấy mầu nhiệm của sự tận hiến của Người cho sứ vụ xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49) Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se “không hiểu” lời này, nhưng đón nhận lời ấy trong đức tin, và Đức Ma-ri-a “hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng”, suốt những năm dài Chúa Giê-su ẩn mình trong sự thinh lặng của cuộc đời bình thường.
III. Các mầu nhiệm của cuộc đời công khai của Chúa Giê-su (535-560)
Chúa Giê-su chịu phép rửa (535-537)
535. 719-720, 701, 438
Chúa Giê-su khởi đầu251 quãng đời công khai bằng việc Người chịu phép rửa của ông Gio-an tại sông Giođan.252 Ông Gio-an rao giảng “phép rửa tỏ lòng thống hối để được ơn tha tội” (Lc 3,3). Đông đảo những người tội lỗi, thu thuế, binh lính,253 Pha-ri-sêu và Xa-đốc,254 cùng những cô gái điếm,255 đến xin ông làm phép rửa. “Bấy giờ Chúa Giê-su đến.” Vị Tẩy Giả ngần ngại, nhưng Chúa Giê-su yêu cầu: Người chịu phép rửa. Lúc đó, Chúa Thánh Thần, lấy hình chim bồ câu, ngự xuống trên Chúa Giê-su, và có tiếng phán từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta” (Mt 3,l3-l7). Đây là việc Chúa Giê-su tỏ mình ra (“Hiển Linh”) với tư cách là Đấng Mê-si-a của Ít-ra-en và là Con Thiên Chúa.
536. 606, 1224, 444, 727, 739
Phép Rửa của Chúa Giê-su, về phần Người, là sự chấp nhận và khởi đầu sứ vụ của Người, với tư cách là Người Tôi Trung Đau Khổ. Người chấp nhận bị liệt vào hàng tội nhân.256 Chính Người là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29); nay Người tham dự trước vào “phép rửa” là cái chết đẫm máu của Người.257 Người đến để chu toàn “đức công chính” (Mt 3,l5), nghĩa là, Người hoàn toàn quy phục thánh ý của Cha Người: vì tình yêu, Người bằng lòng chịu phép rửa là cái chết để chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi.258 Đáp lại sự chấp nhận ấy, có tiếng của Chúa Cha tuyên bố Ngài hoàn toàn hài lòng về Con của mình.259 Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giê-su đã có đầy tràn từ lúc được Người được thụ thai, nay đến để “ở lại” trên Người.260 Chúa Giê-su sẽ là nguồn mạch ban Thánh Thần cho toàn thể nhân loại. Trong phép rửa của Người, “các tầng trời”, mà tội của ông A-đam đã đóng lại, nay được “mở ra cho Người” (Mt 3,l6); và dòng nước nhờ việc Chúa Giê-su và Chúa Thánh Thần ngự xuống được thánh hóa, để chuẩn bị cho một công trình tạo dựng mới.
537. 1262, 628
Ki-tô hữu, nhờ bí tích Rửa Tội, được đồng hóa một cách bí tích với Chúa Giê-su, Đấng, trong phép rửa của mình, đã tham dự trước vào cái Chết và sự Sống Lại của mình; họ phải tiến vào mầu nhiệm của sự khiêm tốn quy phục và thống hối này, bước xuống nước cùng với Chúa Giê-su để cùng với Người bước lên, và phải được tái sinh bởi nước và Chúa Thánh Thần để trở nên con yêu dấu của Chúa Cha trong Chúa Con và “sống một đời sống mới” (Rm 6,4):
“Chúng ta hãy cùng chịu mai táng với Đức Ki-tô bằng Phép Rửa, để cùng được phục sinh với Người; hãy cùng bước xuống với Người, để đồng thời cũng được nâng lên; chúng ta hãy cùng đi lên với Người, để đồng thời cũng được tôn vinh.”261
“Nhờ những gì đã được hoàn thành nơi Đức Ki-tô, chúng ta biết rằng: sau khi chúng ta được tẩy rửa trong nước và Chúa Thánh Thần từ trời ngự xuống trên chúng ta, thì chúng ta được xức dầu vinh quang thiên quốc và trở thành con cái Thiên Chúa nhờ có tiếng của Chúa Cha nhận cho làm nghĩa tử.”262
Chúa Giê-su chịu cám dỗ (538-540)
538. 394, 518
Các sách Tin Mừng có nói đến một thời gian Chúa Giê-su sống cô tịch trong hoang địa, ngay sau khi Người nhận phép rửa của ông Gio-an. “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa” (Mc 1,12) và Chúa Giê-su ở lại đó bốn mươi ngày không ăn; Người sống giữa các dã thú và các Thiên thần hầu hạ Người.263 Cuối thời gian này, Xa-tan cám dỗ Người ba lần nhằm đặt vấn đề về thái độ con thảo của Người đối với Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã đẩy lui các cuộc tấn công này, chúng thu tóm cơn cám dỗ của ông A-đam trong vườn địa đàng và những cơn cám dỗ của dân Ít-ra-en trong hoang địa, rồi ma quỷ bỏ Người mà đi, “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,l3).
539. 397, 385, 609
Các tác giả Tin Mừng nêu rõ ý nghĩa cứu độ của biến cố bí nhiệm này. Chúa Giê-su là A-đam mới, Người vững lòng trung thành ở chỗ A-đam cũ đã đầu hàng cơn cám dỗ. Chúa Giê-su thực hiện cách hoàn hảo ơn gọi của dân Ít-ra-en: trái hẳn với những kẻ xưa kia đã thách thức Thiên Chúa suốt bốn mươi năm trong hoang địa,264 Chúa Giê-su được mặc khải như Người Tôi Trung của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Trong việc này, Chúa Giê-su toàn thắng ma quỷ: Người đã trói kẻ mạnh và thu lại tài sản nó đã cướp.265 Chiến thắng của Chúa Giê-su trước kẻ cám dỗ trong hoang địa báo trước chiến thắng của cuộc khổ nạn, là sự vâng phục tuyệt đối trong tình yêu con thảo của Người đối với Chúa Cha.
540. 2119, 519, 2849, 1438
Cám dỗ Chúa Giê-su phải chịu cho thấy cách thế Con Thiên Chúa là Đấng Mê-si-a, trái ngược hẳn điều Xa-tan xúi giục Người và người ta muốn gán cho Người.266 Chính vì thế, Đức Ki-tô chiến thắng Tên cám dỗ là chiến thắng cho chúng ta: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Mỗi năm, qua bốn mươi ngày Mùa Chay, Hội Thánh kết hợp với mầu nhiệm Chúa Giê-su trong hoang địa.
“Nước Thiên Chúa đã đến gần” (541-542)
541. 2816, 763, 669, 768, 865
“Sau khi ông Gio-an bị nộp, Chúa Giê-su đến miền Ga-li-lê, rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: ‘Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng’” (Mc 1,14-15). “Để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Đức Ki-tô đã khởi đầu Nước Trời nơi trần gian.”267 Và thánh ý Chúa Cha là “nâng loài người lên, cho họ được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa.”268 Thiên Chúa thực hiện điều này bằng cách quy tụ người ta quanh Con của Ngài, là Chúa Giê-su Ki-tô. Cộng đồng được quy tụ này, chính là Hội Thánh, là “hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Thiên Chúa” trên trần gian.269
Bài này đã được xem 5643 lần!