542. 2233, 789
Đức Ki-tô là trung tâm của cộng đồng nhân loại này trong “gia đình của Thiên Chúa.” Người triệu tập họ quanh Người bằng lời nói, bằng những dấu chỉ biểu lộ Nước Thiên Chúa, bằng việc sai phái các môn đệ của Người. Người sẽ làm cho Nước Người đến, chủ yếu nhờ mầu nhiệm cao cả là cuộc Vượt Qua của Người, tức là cái Chết trên thập giá và sự Sống lại của Người. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Mọi người đều được mời gọi tham dự vào sự kết hợp này với Đức Ki-tô.270
Chúa Giê-su loan báo Nước Thiên Chúa (543-546)
543. 764
Mọi người đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa. Nước này của Đấng Mê-si-a trước tiên được loan báo cho con cái Ít-ra-en,271 nhưng hướng đến việc đón nhận mọi người thuộc mọi dân tộc.272 Để vào Nước Thiên Chúa, cần phải đón nhận lời của Chúa Giê-su:
“Lời Chúa được ví như hạt giống gieo trong ruộng: ai nghe Lời Chúa với đức tin và gia nhập đàn chiên nhỏ của Đức Ki-tô, thì đã đón nhận chính Nước Người; rồi do sức của nó, hạt giống nẩy mầm và lớn lên cho tới mùa gặt.”273
544. 709, 2443, 2546
Nước Thiên Chúa thuộc về những người nghèo hèn và bé mọn, nghĩa là, những người đón nhận Nước ấy với tâm hồn khiêm tốn. Đức Ki-tô được sai đến để “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,l8).274 Người tuyên bố rằng họ có phúc, “vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3); Chúa Cha đã thương mặc khải cho những kẻ “bé mọn” này điều Người giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết.275 Chúa Giê-su, từ máng cỏ cho tới thập giá, đã chia sẻ kiếp sống của những kẻ nghèo hèn; Người đã từng chịu đói,276 chịu khát,277 chịu thiếu thốn.278 Hơn thế nữa, Người tự đồng hóa mình với mọi hạng người nghèo hèn và coi lòng yêu thương tích cực đối với họ là điều kiện để được vào Nước của Người.279
545. 1443, 588, 1846, 1439
Chúa Giê-su mời những kẻ tội lỗi vào bàn tiệc Nước Thiên Chúa: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17).280 Người mời gọi họ hối cải, vì không hối cải thì không thể vào Nước Người, nhưng Người cũng dùng lời nói và hành động cho họ thấy lòng thương xót vô biên của Cha Người đối với họ,281 và “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc l5,7). Bằng chứng cao cả nhất của tình yêu này, là việc Người dâng hiến mạng sống mình “cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
546. 2613, 542
Chúa Giê-su kêu gọi người ta vào Nước Trời, bằng cách dùng các dụ ngôn, là nét đặc trưng trong cách giảng dạy của Người.282 Qua các dụ ngôn, Người mời vào dự tiệc Nước Trời,283 nhưng Người cũng đòi phải có một lựa chọn triệt để: để đạt được Nước Trời, cần phải cho đi mọi sự;284 lời nói suông không đủ, cần phải có việc làm.285 Các dụ ngôn như những tấm gương đối với con người: họ đón nhận Lời Chúa chỉ như mảnh đất khô khan hay mảnh đất mầu mỡ?286 Họ làm gì với những nén bạc đã nhận?287 Chúa Giê-su và sự hiện diện của Nước Trời trong trần gian, một cách kín đáo, nằm ở trung tâm của các dụ ngôn. Cần phải tiến vào Nước Trời, nghĩa là, phải trở nên môn đệ Đức Ki-tô, mới “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” (Mt 13,11). Còn đối với những kẻ “ở ngoài” (Mc 4,11), mọi sự đều bí ẩn.288
Các dấu chỉ Nước Thiên Chúa (547-550)
547. 670, 439
Kèm theo những lời Người nói, Chúa Giê-su đã làm “những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ” (Cv 2,22) để cho thấy Nước Trời đang hiện diện nơi Người. Chúng chứng tỏ Chúa Giê-su chính là Đấng Mê-si-a đã được tiên báo.289
548. 156, 2616, 574, 447
Các dấu lạ do Chúa Giê-su thực hiện minh chứng Chúa Cha đã sai Người đến.290 Chúng mời gọi ta hãy tin vào Người.291 Những ai đến với Người bằng đức tin, đức tin cho họ được điều họ thỉnh cầu.292 Lúc đó, các phép lạ củng cố lòng tin vào Người, Đấng thực hiện các công việc của Cha Người: chúng chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa.293 Nhưng chúng cũng có thể là cớ vấp ngã.294 Quả vậy, chúng không nhằm thỏa mãn trí tò mò, và lòng ưa chuộng ma thuật. Bất chấp những phép lạ hết sức tỏ tường của Người, Chúa Giê-su vẫn bị một số người loại bỏ,295 thậm chí Người còn bị tố cáo là hành động nhờ ma quỷ.296
549. 1503, 440
Khi giải thoát một số người khỏi những sự dữ đời này như đói khát,297 bất công,298 bệnh tật và cái chết,299 Chúa Giê-su đã thực hiện các dấu chỉ Người là Đấng Mê-si-a. Tuy nhiên, Người không đến để loại trừ mọi điều xấu khỏi trần gian này,300 nhưng để giải thoát con người khỏi ách nô lệ nặng nề nhất, là ách nô lệ của tội lỗi,301 thứ ách nô lệ này ngăn cản họ trong ơn gọi của họ là làm con cái Thiên Chúa, và gây ra mọi hình thức nô lệ giữa con người.
550. 394, 1673, 440, 2816
Khi Nước Thiên Chúa trị đến là lúc nước Xa-tan bị sụp đổ:302 “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt l2,28). Những việc trừ quỷ do Chúa Giê-su thực hiện, giải phóng người ta khỏi quyền thống trị của ma quỷ.303 Những việc ấy báo trước sự chiến thắng cao cả của Chúa Giê-su trên “thủ lãnh thế gian này.”304 Nhờ thập giá của Đức Ki-tô mà Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập vĩnh viễn: “Thiên Chúa đã cai trị từ cây gỗ.”305
“Chìa khóa Nước Trời” (551-553)
551. 858, 765
Chúa Giê-su, khi khởi đầu đời sống công khai của Người, đã chọn Nhóm Mười Hai người đàn ông để các ông ở với Người và tham dự vào sứ vụ của Người.306 Người cho các ông tham dự vào quyền hành của Người và “sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2). Các ông được liên kết vĩnh viễn với Nước của Đức Ki-tô, bởi vì Người sẽ dùng các ông mà điều khiển Hội Thánh:
“Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự tòa xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Lc 22,29-30).
552. 880, 153, 442, 424
Trong nhóm Mười Hai, ông Simon Phê-rô giữ địa vị thứ nhất;307 Chúa Giê-su ủy thác cho ông một sứ vụ độc đáo. Nhờ Chúa Cha mặc khải, ông Phê-rô tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Lúc đó Chúa chúng ta liền tuyên bố với ông: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt l6,l8). Đức Ki-tô, “Viên đá sống động”,308 bảo đảm rằng Hội Thánh mà Người xây dựng trên Tảng Đá Phê-rô sẽ chiến thắng quyền lực tử thần. Nhờ đức tin ông đã tuyên xưng, ông Phê-rô sẽ mãi là Tảng Đá kiên vững của Hội Thánh. Ông có sứ vụ gìn giữ đức tin được toàn vẹn và làm cho các anh em mình nên vững mạnh trong đức tin.309
553. 881, 1445, 641, 881
Chúa Giê-su ủy thác cho ông Phê-rô một thẩm quyền đặc biệt: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời; dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). “Quyền chìa khoá” là quyền cai quản Nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh. Chúa Giê-su, “Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11) xác nhận nhiệm vụ đó sau khi Người phục sinh: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,15-17). Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh. Chúa Giê-su ủy thác quyền này cho Hội Thánh qua thừa tác vụ của các Tông Đồ,310 và đặc biệt của ông Phê-rô, người duy nhất Chúa minh nhiên trao phó chìa khóa Nước Trời.
Nếm trước Nước Trời: Chúa Hiển Dung (554-556)
554. 697, 2600, 440
Từ ngày ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giê-su “bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết, Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ…, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Ông Phê-rô khước từ lời loan báo đó,311 các môn đệ khác cũng không hiểu gì hơn.312 Chính trong bối cảnh này, đã xảy ra biến cố kỳ diệu là cuộc Hiển Dung của Chúa Giê-su313 trên núi cao, trước mặt ba nhân chứng do Người lựa chọn, là các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Dung mạo và y phục của Chúa Giê-su trở nên chói sáng, ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người, “nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31). Một đám mây bao phủ các Ngài và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
555. 2576, 2583, 257
Chúa Giê-su tỏ lộ vinh quang thần linh của mình trong chốc lát, và như vậy, Người xác nhận lời tuyên xưng của ông Phê-rô. Người cũng cho thấy rằng, để “vào trong vinh quang của Người” (Lc 24,26), Người phải đi qua thập giá tại Giê-ru-sa-lem. Ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã thấy vinh quang của Thiên Chúa trên núi; Lề luật và các Tiên tri đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mê-si-a.314 Cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su đúng là do ý muốn của Chúa Cha: Chúa Con hành động với tư cách là Người Tôi Trung của Thiên Chúa.315 Đám mây nói lên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần: “Cả Ba Ngôi cùng xuất hiện, Chúa Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong nhân tính của mình, Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng chói”:316
“Lạy Chúa Ki-tô là Thiên Chúa, Chúa đã hiển dung trên núi và, tùy theo khả năng, các môn đệ Chúa chiêm ngưỡng vinh quang Chúa, để mai sau khi thấy Chúa chịu đóng đinh thập giá, họ hiểu rằng Chúa đã tự nguyện chịu khổ hình. Rồi họ sẽ loan báo cho thế giới biết Chúa chính là vinh quang Chúa Cha chiếu toả.”317
556. 1003
Tại ngưỡng cửa đời sống công khai: phép rửa; tại ngưỡng cửa cuộc Vượt Qua: biến cố Hiển Dung. Qua phép rửa của Chúa Giê-su, “mầu nhiệm cuộc tái sinh lần thứ nhất” được loan báo: đó là bí tích Rửa Tội của chúng ta; Hiển Dung là “bí tích của cuộc tái sinh lần thứ hai”: đó là sự phục sinh riêng của chúng ta.318 Ngay từ bây giờ, chúng ta được tham dự vào sự phục sinh của Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong các bí tích của Thân Thể Chúa Ki-tô. Biến cố Hiển Dung cho chúng ta được nếm trước việc ngự đến trong vinh quang của Chúa Ki-tô, Đấng “sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Nhưng biến cố ấy cũng nhắc nhở chúng ta rằng: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22).
“Khi ông Phê-rô ước ao sống với Đức Ki-tô trên núi, ông chưa hiểu gì.319 Hỡi ông Phê-rô, Chúa sẽ chỉ dành cho ông điều đó, sau khi chết. Còn hiện nay thì Chúa nói: Hãy xuống núi để chịu lao nhọc ở trần gian, để phục vụ ở trần gian, để chịu sỉ nhục, chịu đóng đinh ở trần gian. Đấng là Sự Sống, đã xuống để bị giết; Đấng là Bánh, đã xuống để chịu đói; Đấng là Đường, đã xuống để chịu mệt nhọc trên đường; Đấng là Nguồn Mạch, đã xuống để chịu khát; còn ông lại từ chối lao nhọc ư?.”320
Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem (557-558)
557. “Khi đã tới ngày Chúa Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,5l).321 Qua quyết định này, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Người lên Giê-ru-sa-lem trong tư thế sẵn sàng để chịu chết ở đó. Người đã loan báo đến ba lần cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Người.322 Khi tiến về Giê-ru-sa-lem, Người nói: “Một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được!” (Lc l3,33).
558. Chúa Giê-su gợi lại cái chết của các Tiên tri, đã bị giết ở Giê-ru-sa-lem.323 Dù sao, Người vẫn khẩn khoản kêu gọi Giê-ru-sa-lem quy tụ quanh Người: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,37b). Khi nhìn thấy Giê-ru-sa-lem, Người khóc thương thành ấy324 và một lần nữa thốt lên ao ước của lòng Người: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được” (Lc 19,42).
Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (559-560)
559. 333, 1352
Giê-ru-sa-lem sẽ đón nhận Đấng Mê-si-a của mình như thế nào? Chúa Giê-su, Đấng luôn trốn tránh mọi ý đồ của dân chúng muốn tôn Người làm vua,325 đã chọn thời điểm và chuẩn bị kỹ lưỡng để tiến vào Giê-ru-sa-lem, thành của “Đa-vít, tổ tiên Người” (Lc 1,32) với tư cách là Đấng Mê-si-a.326 Người được dân chúng hoan hô như con vua Đa-vít, như Đấng mang lại ơn cứu độ (Hosanna có nghĩa là “xin cứu”, “xin ban ơn cứu độ!”). Nhưng “Đức Vua vinh hiển” (Tv 24,7-10) lại “ngồi trên lưng lừa con” (Dcr 9,9) tiến vào thành: Người không chinh phục Thiếu nữ Xi-on, hình ảnh của Hội Thánh Người, bằng mưu mẹo hay bằng bạo lực, nhưng bằng sự khiêm tốn, là bằng chứng của sự thật.327 Vì vậy, ngày hôm đó, thần dân của Nước Người là các trẻ em328 và “những người nghèo của Thiên Chúa”, họ tung hô Người giống như các Thiên thần đã loan báo Người cho các mục đồng.329 Lời tung hô của họ: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Tv 118,26) được Hội Thánh dùng lại trong kinh “Thánh! Thánh! Thánh!” để mở đầu phụng vụ Thánh Thể tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa.
560. 550, 2816
Việc Chúa Giê-su tiến vào thành Giê-ru-sa-lem tỏ cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến. Sự kiện đó, Đức Vua Mê-si-a sắp hoàn thành bằng cuộc Vượt Qua, là sự Chết và sự Sống lại của Người. Phụng vụ Hội Thánh khởi đầu Tuần Thánh bằng việc cử hành biến cố Chúa Giê-su tiến vào Giê-ru-sa-lem, trong Chúa Nhật Lễ Lá.
Tóm lược (561-570)
561. “Cả cuộc đời của Đức Ki-tô là một giáo huấn liên tục: những lúc Người thinh lặng, các dấu lạ Người làm, việc Người cầu nguyện, tấm lòng yêu thương của Người đối với con người, sự quan tâm đặc biệt của Người đối với những người bé mọn và nghèo hèn, việc Người hoàn toàn chấp nhận hiến mình trên thập giá để cứu chuộc loài người, và cuối cùng việc Người sống lại, tất cả là sự thực hiện lời Người và sự hoàn tất Mặc Khải của Người.”330
562. Các môn đệ Đức Ki-tô phải nên giống Người cho tới khi Người được thành hình trong họ.331 “Chúng ta được thâu nhận vào các mầu nhiệm của cuộc đời Người, nên đồng hình đồng dạng với Người, cùng chết và cùng sống lại với Người, cho tới khi cùng cai trị với Người.”332
563. Con người, hoặc mục đồng hoặc đạo sĩ, không thể gặp được Thiên Chúa ở trần gian này, nếu không qùy xuống trước máng cỏ Bêlem và thờ lạy Thiên Chúa ẩn mình trong sự yếu đuối của một hài nhi.
564. Chúa Giê-su, qua việc tuân phục Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se, và qua việc lao động khiêm nhường trong những năm dài ở Na-da-rét, nêu gương thánh thiện cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày trong gia đình và trong việc lao động.
565. Chúa Giê-su, ngay từ lúc khởi đầu đời sống công khai của Người, lúc Người chịu phép rửa, là “Người Tôi Trung” hoàn toàn hiến thân cho công trình Cứu Độ, công trình này sẽ được hoàn tất trong “phép rửa” là cuộc khổ nạn của Người.
566. Các cơn cám dỗ trong hoang địa cho thấy Chúa Giê-su, Đấng Mê-si-a khiêm nhường, đã chiến thắng Xa-tan nhờ việc Người gắn bó trọn vẹn với kế hoạch cứu độ theo ý muốn của Chúa Cha.
567. Đức Ki-tô đã khai mạc Nước Trời nơi trần gian. “Thật sự, Nước này chiếu sáng trước mặt mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Chúa Ki-tô.”333 Hội Thánh là hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Trời. Chìa khóa Nước Trời được trao cho ông Phê-rô.
568. Cuộc Hiển Dung của Chúa Ki-tô nhằm mục đích củng cố đức tin của các Tông Đồ để chuẩn bị cho cuộc khổ nạn: việc leo lên “núi cao” chuẩn bị cho việc leo lên đồi Calvariô. Đức Ki-tô, Đầu của Hội Thánh, biểu lộ điều Thân Thể Người ao ước và là điều được phản ánh trong các bí tích: đó là “niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,27).334
569. Chúa Giê-su tự nguyện lên Giê-ru-sa-lem dù biết rằng tại đây Người sẽ phải chết cách khổ nhục vì sự thù nghịch của những kẻ tội lỗi.335
570. Việc Chúa Giê-su tiến vào thành Giê-ru-sa-lem cho thấy Nước Trời đang đến. Đức Vua Mê-si-a, mà trẻ em và những người có tâm hồn nghèo hèn nghênh đón, sẽ hoàn thành Nước Trời bằng cuộc Vượt Qua, là cái Chết và sự Sống lại của Người.
Bài này đã được xem 5735 lần!