GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Tóm lược (619-623)

619. “Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh” (1 Cr 15,3).

620. Ơn cứu độ của chúng ta xuất phát từ sự khởi xướng của tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta “chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10). “Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được giao hòa với Ngài” (2 Cr 5,19).

621. Chúa Giê-su đã tự hiến một cách tự do để cứu độ chúng ta. Người tỏ cho thấy và thực hiện trước việc ban tặng này trong bữa Tiệc Ly: “Đây là mình Thầy, bị nộp vì anh em” (Lc 22,19).

622. Công trình Cứu Chuộc của Đức Ki-tô cốt tại điều này: Người “đến… hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), nghĩa là, “Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1), để họ được cứu chuộc khỏi lối sống phù phiếm do cha ông họ truyền lại.510

623. Nhờ sự vâng phục vì tình yêu đối với Chúa Cha, vâng phục trọn vẹn cho đến nỗi “chết trên cây thập tự” (Pl 2,8), Chúa Giê-su đã hoàn thành sứ vụ đền tội511 của Người Tôi trung đau khổ, Đấng làm cho muôn người nên công chính và chính Người gánh lấy tội lỗi của họ.512


Chú thích

421 X. Ga 7,50.

422 X. Ga 19,38-39.

423 X. Ga 9,16-17; 10,19-21.

424 X. Ga 9,16; 10,19.

425 X. Ga 9,22.

426 X. Mt 26,66.

427 X. Ga 18,31.

428 X. Lc 23,2.

429 X. Ga 19,12.15.21.

430 X. Mc 15,11.

431 X. Cv 2,23.36; 3,13-14; 4,10; 5,30; 7,52; 10,39; 13,27-28; 1 Tx 2,14-15.

432 X. Lc 23,34.

433 X. Cv 3,17.

434 X. Cv 5,28; 18,6.

435 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Nostra aetate, 4: AAS 58 (1966) 743.

436 Catechismus Romanus, 1, 5, 11: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 64. x. Dt 12,3.

437 X. Mt 25,45; Cv 9,4-5.

438 Catechismus Romanus, 1, 5, 11: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 64.

439 Thánh Phan-xi-cô Assisi, Admonitio, 5,3: Opuscula sancti Patris Francisci Assisiensis, ed. C. Esser (Grottaferrata 1978) 66.

440 X. Cv 3,13.

441 X. Tv 2,1-2.

442 X. Mt 26,54; Ga 18,36; 19,11.

443 X. Cv 3,17-18.

444 X. Is 53,11; Cv 3,14.

445 X. Is 53,11-12; Ga 8,34-36.

446 X. 1 Cr 15,3.

447 X. Cv 3,18; 7,52; 13,29; 26,22-23.

448 X. Is 53,7-8; Cv 8,32-35.

449 X. Mt 20,28.

450 X. Lc 24,25-27.

451 X. Lc 24,44-45.

452 X. Rm 5,12; 1 Cr 15,56.

453 X. Pl 2,7.

454 X. Rm 8,3.

455 X. Ga 8,46.

456 X. Ga 8,29.

457 X. Tv 22,1.

458 X. 1 Ga 4,19.

459 X. Rm 5,18-19.

460 X. 2 Cr 5,15; 1 Ga 2,2.

461 CĐ Carisia (năm 853), De libero arbitrio hominis et de praedestinatione, canon 4: Ds 624.

462 X. Ga 6,38.

463 X. Lc 12,50; 22,15; Mt 16,21-23.

464 X. Lc 3,21; Mt 3,14-15.

465 X. Ga 1,29.36.

466 X. Is 53,7; Gr 11,19.

467 X. Is 53,12.

468 X. Xh 12,3-14; Ga 19,36; 1 Cr 5,7.

469 X. Mc 10,45.

470 X. Dt 2,10.17-18; 4,15; 5,7-9.

471 X. Ga 18,4-6; Mt 26,53.

472 X. Mt 16,20.

473 X. 1 Cr 5,7.

474 X. 1 Cr 11,25.

475 X. Lc 22,19.

476 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 22a, Doctrina de sanctissimo Missae Sacrificio, c. 2: DS 1752; Sess. 23a, Doctrina de sacramento Ordinis, c.1: DS 1764.

477 X. Lc 22,20.

478 X. Mt 26,42.

479 X. Dt 5,7-8.

480 X. Dt 4,15.

481 X. Rm 5,12.

482 X. Cv 3,15.

483 X. Kh 1,18; Ga 1,4; 5,26.

484 X. Mt 26,42.

485 X. 1 Cr 5,7; Ga 8,34-36.

486 X. Ga 1,29; 1 Pr 1,19.

487 X. 1 Cr 11,25.

488 X. Xh 24,8.

489 X. Mt 26,28; Lv 16,15-16.

490 X. Dt 10,10.

491 X. 1 Ga 4,10.

492 X. Ga 15,13.

493 X. Ga 10,17-18.

494 X. Dt 9,14.

495 X. Is 53,10-12.

496 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 7: DS 1529.

497 X. Ga 13,1.

498 X. Gl 2,20; Ep 5,2.25.

499 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 1: DS 1529.

500 X. Dt 5,9.

501 Additio liturgica ad Hymnum “Vexilla Regis”: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v, 2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 313; v. 4 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 1129.

502 X. 1 Tm 2,5.

503 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.

504 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1043.

505 X. Mt 16,24.

506 X. 1 Pr 2,21.

507 X. Mc 10,39; Ga 21,18-19; Cl 1,24.

508 X. Lc 2,35.

509 Thánh Rô-sa Li-ma: P.Hansen, Vita mirabilis […] venerabilis sororis Rosae de sancta Ma-ri-a Limensis (Romae 1664) 137.

510 X. 1 Pr 1,18.

511 X. Is 53,10.

512 X. Is 53,11; Rm 5,19.

 

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

624. 1005, 362, 349

Chúa Giê-su “đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2,9). Trong kế hoạch cứu độ của Ngài, Thiên Chúa đã định cho Con của Ngài không những phải chết “vì tội lỗi chúng ta” (1 Cr 15,3), nhưng còn phải “nếm sự chết”, nghĩa là, biết tình trạng của sự chết, tình trạng linh hồn Người và thân thể Người tách rời nhau một thời gian, từ lúc Người tắt thở trên thập giá cho đến lúc Người sống lại. Tình trạng Chúa Giê-su chịu chết là mầu nhiệm của việc mai táng và việc xuống ngục tổ tông. Đó là mầu nhiệm của ngày Thứ Bảy Tuần Thánh trong đó Đức Ki-tô, được đặt trong mồ,513 biểu lộ sự nghỉ ngơi cao cả của Thiên Chúa vào ngày sa-bát,514 sau khi hoàn tất công trình cứu độ loài người,515 đem lại bình an cho khắp trần gian.516

Thân thể Đức Ki-tô ở trong mộ (625-626)

625. Khoảng thời gian Đức Ki-tô ở trong mộ thật sự nối kết tình trạng còn chịu đau đớn trước cuộc Vượt Qua của Người, với tình trạng vinh hiển hiện tại của Đấng Phục Sinh. Chính Ngôi Vị của “Đấng Hằng Sống” có thể nói: “Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Kh 1,18):

“Đây là mầu nhiệm của sự sắp đặt của Thiên Chúa đối với cái Chết và sự Sống Lại từ cõi chết của Con Ngài, là bằng cái chết, linh hồn quả thật bị tách biệt khỏi thân thể, và Ngài đã không ngăn cản hậu quả tất yếu của tự nhiên; tuy nhiên, nhờ sự Sống Lại, mọi sự đã lại kết hợp với nhau nơi Người, đến độ Người thật sự trở thành giao điểm của sự chết và sự sống: để Đấng đã thiết lập điều tự nhiên bị tách biệt bằng cái chết, thì chính Người đã là nguyên lý kết hợp những gì đã bị tách biệt.”517

626. 470, 650

Bởi vì “Đấng khơi nguồn sự sống” đã bị giết518 cũng là “Đấng hằng sống đã phục sinh”,519 nên tất yếu là Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa vẫn tiếp tục đảm nhận linh hồn và thân thể của Người khi cả hai bị tách biệt với nhau vì cái chết:

“Vì vậy, mặc dầu Đức Ki-tô, như một người, đã chết, và linh hồn thánh của Người đã lìa khỏi thân thể tinh tuyền của Người, nhưng thần tính không tách biệt khỏi bên nào, không hề tách biệt khỏi linh hồn cũng không hề tách biệt khỏi thân thể: Ngôi Vị duy nhất của Người không bị chia ra thành hai. Quả vậy, thân thể và linh hồn ngay từ đầu đã hiện hữu trong Ngôi Vị của Ngôi Lời; và mặc dầu hồn xác bị tách biệt nhau trong sự chết, nhưng cả hai vẫn luôn hiện hữu nơi Ngôi Vị duy nhất của Ngôi Lời.”520

“Chúa không để Đấng Thánh của Ngài phải hư nát” (627)

627. 1009, 1683

Cái chết của Đức Ki-tô cái chết thật, vì đã chấm dứt cuộc đời nhân loại nơi trần thế của Người. Nhưng vì sự kết hợp của Ngôi Vị Chúa Con với thân thể của Người, nên thân thể ấy không trở thành một xác chết giống như trong những trường hợp khác, “vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi” (Cv 2,24), và do đó, “quyền năng của Thiên Chúa đã gìn giữ thân thể Đức Ki-tô khỏi hư nát.”521 Về Đức Ki-tô, đồng thời người ta vừa có thể nói: “Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh” (Is 53,8), vừa có thể nói: “Cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát” (Cv 2,26-27).522 Sự Sống Lại của Đức Ki-tô “ngày thứ ba” (1 Cr 15,4; Lc 24,46)523 là dấu chỉ của điều đó, cũng bởi vì người ta cho rằng sự hư nát được biểu lộ từ ngày thứ tư.524

“Cùng chịu mai táng với Đức Ki-tô…” (628)

628. 537, 1214

Bí tích Rửa Tội, mà dấu chỉ nguyên thủy và đầy đủ của bí tích này là việc dìm xuống nước, nói lên cách hiệu nghiệm việc Ki-tô hữu xuống mộ để người ấy cùng với Đức Ki-tô chết cho tội lỗi, hầu tiến vào một đời sống mới: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4).525

Tóm lược (629-630)

629. Chúa Giê-su đã nếm sự chết vì mọi người.526 Con Thiên Chúa làm người đã chết thật sự và đã được mai táng thật sự.

630. Trong thời gian Đức Ki-tô ở trong mộ, Ngôi Vị thần linh của Người vẫn luôn đảm nhận cả linh hồn cả thân thể của Người, tuy lúc đó hai bên bị cái chết tách biệt. Vì vậy, thân thể của Đức Ki-tô đã chết mà “không phải hư nát” (Cv 13,37).


Chú thích

513 X. Ga 19,42.

514 X. Dt 4,4-9.

515 X. Ga 19,30.

516 X. Cl 1,18-20.

517 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, Oratio catechetica 16, 9: TD 7,90 (PG 45,52).

518 X. Cv 3,15.

519 X. Lc 24,5-6.

520 Thánh Gio-an thành Đa-mát, Expositio fidei, 71 [De fide orthodoxa 3,27]: PTS 12,170 (PG 94,1098).

521 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, 51, 3, ad 2; Ed. Leon. 11, 490.

522 X. Tv 16,9-10.

523 X. Mt 12,40; Ga 2,1; Hs 6,2.

524 X. Ga 11,39.

525 X. Cl 2,12; Ep 5,26.

526 X. Dt 2,9.

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

631. Chúa Giê-su “đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất. Đấng đã xuống, cũng chính là Đấng đã lên” (Ep 4,9-10). Tín biểu của các Tông Đồ tuyên xưng trong cùng một mục, việc Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông và việc ngày thứ ba Người bởi trong kẻ chết mà sống lại, bởi vì trong cuộc Vượt Qua của Người, chính từ trong lòng cái chết mà Người làm vọt lên sự sống:

“Đức Ki-tô, Con yêu quý của Cha, Đấng đã từ cõi âm ty trở lại,
đem ánh sáng thanh bình soi chiếu vạn dân,
Người hằng sống hiển trị muôn đời. A-men.”527


Đề mục

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)


Chú thích

527 Canh thức Vượt qua, Công bố Tin mừng Phục sinh (“Exsultet”): Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 273 et 275.

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

632. Những xác quyết thường xuyên của Tân Ước, theo đó Chúa Giê-su “trỗi dậy từ cõi chết” (1 Cr 15,20),528 giả thiết là, trước khi Người sống lại, Người đã ở nơi của những người chết.529 Lời rao giảng của các Tông Đồ về việc Chúa Giê-su xuống ngục tổ tông có ý nghĩa đầu tiên này: Chúa Giê-su đã chết giống như mọi người, và linh hồn Người đã xuống với họ, ở nơi của những người chết. Nhưng Người xuống đó với tư cách là Đấng Cứu Độ, để loan báo Tin Mừng cho các vong linh bị cầm giữ ở đó.530

633. 1033

Thánh Kinh gọi nơi ở của những người chết, mà Đức Ki-tô khi chết đã xuống, là âm phủ, Sheol (tiếng Do-thái) hoặc Hades (tiếng Hy-lạp),531 bởi vì những kẻ ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa.532 Thật vậy, tình trạng của mọi người đã chết, dù họ công chính hay xấu xa, đều như vậy, trong khi mong đợi Đấng Cứu Chuộc,533 điều này không có nghĩa là số phận của họ đều như nhau, như Chúa Giê-su cho thấy trong dụ ngôn anh Lazarô nghèo khổ được đem “vào lòng ông Áp-ra-ham.”534 “Khi xuống ngục tổ tông, Chúa Ki-tô đã giải thoát linh hồn những người công chính đang ở trong lòng ông Áp-ra-ham mà mong đợi Đấng Cứu Độ.”535 Chúa Giê-su không xuống ngục tổ tông để giải thoát những kẻ đã bị kết án536 hoặc để phá hủy địa ngục đọa đày,537 nhưng để giải thoát những người công chính đã đi trước Người.538

634. 605

“Tin Mừng đã được loan báo ngay cho cả những kẻ chết” (1 Pr 4,6). Việc xuống ngục tổ tông là sự hoàn thành, một cách sung mãn, việc loan báo Tin Mừng cứu độ. Đây là chặng cuối cùng trong sứ vụ làm Đấng Mê-si-a của Chúa Giê-su, trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng trong một ý nghĩa thật hết sức rộng lớn của việc mở rộng công trình cứu chuộc cho mọi người thuộc mọi thời và mọi nơi, bởi vì tất cả những ai được cứu độ đều được tham dự vào công trình Cứu Chuộc.

635. Vì vậy, Đức Ki-tô đã xuống cõi thâm sâu của sự chết539 để “các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, ai nghe thì sẽ được sống” (Ga 5,25). Chúa Giê-su, “Đấng khơi nguồn sự sống”,540 đã “nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ” (Dt 2,14-l5). Từ nay, Đức Ki-tô phục sinh “nắm giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1,18) và “khi vừa nghe Danh Thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2,10).

“Hôm nay mặt đất hoàn toàn thinh lặng, hoàn toàn thinh lặng và hoàn toàn cô quạnh; hoàn toàn thinh lặng vì Đức Vua an giấc; trái đất đã sợ hãi rồi yên tĩnh, vì Thiên Chúa đang ngủ trong xác phàm, và Người đánh thức những kẻ đang ngủ từ bao đời… Chắc chắn Người đi tìm nguyên tổ như tìm con chiên lạc. Người muốn đến thăm tất cả những ai đang ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết; Đấng vừa là Thiên Chúa, vừa là con cháu của nguyên tổ đến để giải thoát ông A-đam đang bị cầm giữ cùng với bà E-và bị cầm giữ khỏi những sự đau buồn. Ta là Thiên Chúa của ngươi, nhưng vì ngươi, Ta đã trở thành con của ngươi… Hãy trỗi dậy, hỡi người ngủ mê: vì Ta dựng nên ngươi không phải để cho ngươi ở lại đây trong gông cùm âm phủ. Hãy trỗi dậy từ cõi chết; Ta là Sự Sống của những kẻ đã chết.”541

Tóm lược (636-637)

636. Bằng kiểu nói “Chúa Giê-su xuống ngục tổ tông”, Tín biểu tuyên xưng Chúa Giê-su thật sự đã chết và nhờ cái Chết của Người vì chúng ta, Người đã chiến thắng cả sự chết lẫn ma quỷ, “tên lãnh chúa gây ra sự chết” (Dt 2,14).

637. Đức Ki-tô đã chết, với linh hồn được kết hợp cùng Ngôi Vị thần linh, Người đã xuống nơi ở của những kẻ chết. Người đã mở cửa trời cho những người công chính đã đi trước Người.


Chú thích

528 X. Cv 3,15; Rm 8,11.

529 X. Dt 13,20.

530 X. 1 Pr 3,18-19.

531 X. Pl 2,10; Cv 2,24; Kh 1,18; Ep 4,9.

532 X. Tv 6,6; 88,11-13.

533 X. Tv 89,49; 1 Sm 28,19; Ed 32,17-32.

534 X. Lc 16,22-26.

535 Catechismus Romanus, 1, 6, 3: ed. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 71.

536 X. CĐ Rô-ma (năm 745), De descensu Christi ad inferos: DS 587.

537 X. ĐGH Bê-nê-đích-tô XII, Libellus Cum dudum (năm 1341), 18: DS 1011; ĐGH Clêmentê VI, Epistula Super quibusdam (năm 1351), c. 15, 13: DS 1077.

538 X. CĐ Tôlêđô IV (năm 633), Capitulum, 1: DS 485; Mt 27,52-53.

539 X. Mt 12,40; Rm 10,7; Ep 4,9.

540 X. Cv 3,15.

541 Antiqua homilia in sancto et magno Sabbato: PG 43,440.452.461.

 

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

638. 90, 651, 991

“Chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Ngài đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ông, khi làm cho Chúa Giê-su sống lại” (Cv l3,32-33). Sự Sống Lại của Chúa Giê-su là chân lý cao cả nhất của đức tin chúng ta vào Đức Ki-tô, với tính cách là một chân lý trung tâm đã được tin và thể hiện trong cuộc sống bởi cộng đoàn Ki-tô Giáo tiên khởi, đã được lưu truyền bởi Thánh Truyền như chân lý nền tảng, đã được xác lập bởi các văn kiện của Tân Ước, và được rao giảng, đồng thời cùng với thập giá, như là phần thiết yếu của mầu nhiệm Vượt Qua:

“Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết,
Nhờ cái Chết của Người, Người đã chiến thắng sự chết,
Người đã ban sự sống cho những kẻ đã chết.”542

I. Biến cố lịch sử và siêu việt (639-647)

639. Mầu nhiệm của sự Sống lại của Đức Ki-tô là một biến cố có thật, với những cuộc tỏ hiện đã được kiểm chứng theo lịch sử, như Tân Ước làm chứng. Khoảng năm 56, thánh Phao-lô đã có thể viết cho tín hữu Côrintô: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với nhóm Mười Hai” (1 Cr l5,3-4). Ở đây vị Tông Đồ nói đến truyền thống sống động về sự Sống lại mà ngài đã học được sau cuộc hối cải của ngài ở cổng thành Đamas.543

Ngôi mộ trống (640)

640. 999

“Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi” (Lc 24,5-6). Trong các biến cố Vượt Qua, yếu tố đầu tiên mà ta gặp là ngôi mộ trống. Tự nó, điều này không phải là một bằng chứng trực tiếp. Việc thân thể Đức Ki-tô không còn trong mộ có thể được giải thích cách khác.544 Dầu vậy, ngôi mộ trống vẫn là một dấu chỉ căn bản đối với mọi người. Việc phát hiện ngôi mộ trống là bước đầu dẫn các môn đệ đến việc nhìn nhận chính sự kiện Sống lại. Trước hết đó là trường hợp của các phụ nữ thánh thiện,545 rồi đến ông Phê-rô.546 Người môn đệ “Chúa Giê-su thương mến” (Ga 20,2), khi vào trong mộ và thấy “những băng vải để ở đó” (Ga 20,6), khẳng định rằng ông đã thấy và đã tin.547 Điều này giả thiết rằng khi thấy ngôi mộ trống548 ông đã nhận ra rằng việc thân thể Chúa Giê-su không còn đó không phải là một việc do người phàm và Chúa Giê-su đã không đơn thuần trở lại cuộc sống trần thế như trường hợp anh Lazarô.549

Những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh (641-644)

641. 553, 448

Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và các phụ nữ thánh thiện, những người đã đến để hoàn thành việc xức dầu cho thân thể của Chúa Giê-su,550 vốn được mai táng cách vội vã vào chiều ngày Thứ Sáu vì đã đến ngày sa-bát,551 là những người đầu tiên được gặp Đấng Phục Sinh.552 Như vậy, các phụ nữ là những sứ giả đầu tiên loan báo sự sống lại của Đức Ki-tô cho chính các Tông Đồ.553 Sau đó Chúa Giê-su hiện ra với các ông, trước hết là với ông Phê-rô, sau đó với nhóm Mười Hai.554 Vì vậy, ông Phê-rô, người đã được kêu gọi để củng cố đức tin của các anh em mình,555 đã thấy Đấng Phục Sinh trước các anh em và dựa trên chứng từ của ông mà cộng đoàn kêu lên: “Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,34).

642. 659, 881, 860

Tất cả những gì đã xảy ra trong những ngày lễ Vượt Qua đó, đòi buộc mỗi vị Tông Đồ, đặc biệt là ông Phê-rô, xây dựng một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đã bắt đầu từ sáng ngày Vượt Qua. Với tư cách là những chứng nhân của Đấng Phục Sinh, các ngài mãi là những tảng đá nền móng của Hội Thánh Người. Đức tin của cộng đoàn các tín hữu tiên khởi được xây dựng trên lời chứng của những con người cụ thể mà các Ki-tô hữu quen biết và phần đông lúc đó còn sống giữa họ. “Những chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô”556 trước hết là ông Phê-rô và Nhóm Mười Hai, nhưng không chỉ có các vị ấy: ông Phao-lô nói đến hơn năm trăm người đã được Chúa Giê-su hiện ra một lượt, rồi với ông Gia-cô-bê và với tất cả các Tông Đồ.557

643. Trước những lời chứng đó, không thể giải thích rằng sự phục sinh của Đức Ki-tô nằm bên ngoài trật tự thể lý, và không thể không công nhận sự phục sinh đó có tính cách là một sự kiện lịch sử. Qua các sự kiện, người ta thấy rõ là đức tin của các môn đệ đã bị lung lay tận gốc do cuộc khổ nạn và cái Chết trên thập giá của Thầy họ, mà chính Người đã báo trước.558 Sự chấn động tâm hồn do cuộc khổ nạn gây nên là mạnh mẽ đến nỗi các môn đệ (hoặc ít nhất một số người trong họ) không tin ngay lời loan báo về việc Sống Lại. Các sách Tin Mừng không hề trình bày cho chúng ta thấy một cộng đoàn đầy hứng khởi thần bí; nhưng cho chúng ta thấy những môn đệ mất tinh thần (“buồn rầu”: Lc 24,17) và hoảng sợ.559 Vì vậy, họ đã không tin các phụ nữ thánh thiện từ ngôi mộ trở về, và những lời của các bà, họ “cho là chuyện vớ vẩn” (Lc 24,11).560 Khi Chúa Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một chiều ngày Vượt Qua, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người sống lại” (Mc 16,14).

644. Các môn đệ, cả khi đứng trước thực tại Chúa Giê-su phục sinh, vẫn còn nghi ngờ;561 đối với các ông, coi như không thể nào có việc ấy: họ tưởng là thấy ma,562 “các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng” (Lc 24,41). Ông Tô-ma cũng đã nghi ngờ như vậy,563 và trong dịp hiện ra lần cuối cùng mà sách Mát-thêu thuật lại, “có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Vì vậy, giả thuyết cho rằng sự Phục Sinh là “sản phẩm” của lòng tin (hay sự dễ tin) của các Tông Đồ, không có cơ sở. Hoàn toàn trái lại, đức tin của các ông vào sự Phục Sinh phát xuất từ kinh nghiệm trực tiếp về thực tại Chúa Giê-su sống lại, dưới tác động của ân sủng của Thiên Chúa.

Trạng thái nhân tính đã phục sinh của Đức Ki-tô (645-646)

645. 999

Chúa Giê-su phục sinh liên hệ trực tiếp với các môn đệ của Người qua đụng chạm564 và qua việc chia sẻ thực phẩm.565 Như vậy, Người mời gọi họ nhìn nhận Người không phải là ma,566 nhưng nhất là để các ông thấy rõ rằng thân thể phục sinh của Người đang hiện diện với các ông, chính là thân thể đã bị hành hạ và bị đóng đinh vào thập giá, bởi vì thân thể đó vẫn còn mang các dấu vết của cuộc khổ nạn của Người.567 Tuy nhiên, thân thể đích thực và hiện thực này đồng thời có những đặc tính mới của một thân thể vinh hiển: thân thể đó không còn bị ràng buộc trong không gian và thời gian nữa, nhưng có thể tự do hiện diện ở đâu và lúc nào Người muốn,568 bởi vì nhân tính của Người không còn có thể bị ràng buộc ở trần thế nữa và chỉ thuộc về quyền năng thần linh của Chúa Cha.569 Cũng vì vậy, Chúa Giê-su phục sinh hoàn toàn tự do để hiện ra như Người muốn: dưới hình dạng một người làm vườn570 hoặc “dưới một hình dạng khác” (Mc 16,12), không giống hình dạng các môn đệ đã quen, chính là để khơi dậy đức tin của các ông.571

Bài này đã được xem 5728 lần!

Pages ( 24 of 96 ): <1 ... 2223 24 2526 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]