GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

646. 934, 549

Sự Phục Sinh của Đức Ki-tô không phải là việc trở lại với cuộc sống trần thế, giống như trường hợp của những kẻ Người đã cho sống lại trước cuộc Vượt Qua: con gái ông Giairô, người thanh niên Naim, anh Lazarô. Các sự kiện này là những biến cố kỳ diệu, nhưng những người được hưởng phép lạ đó, nhờ quyền năng của Chúa Giê-su, chỉ trở lại với cuộc sống trần thế “thông thường.” Một lúc nào đó họ sẽ lại chết. Sự phục sinh của Đức Ki-tô thì hoàn toàn khác hẳn. Trong thân thể phục sinh của Người, Người chuyển từ trạng thái phải chết sang một sự sống khác vượt trên thời gian và không gian. Thân thể của Chúa Giê-su trong sự Phục Sinh đầy tràn quyền năng của Chúa Thánh Thần; thân thể này tham dự vào sự sống thần linh trong trạng thái vinh quang của Người, đến độ thánh Phao-lô đã có thể nói Đức Ki-tô là một người thiên giới.572

Sự Phục Sinh xét như một biến cố siêu việt (647)

647. 1000

Thánh thi Exultet trong đêm Canh thức Vượt Qua hát: “Ôi! Đêm thật diễm phúc, đêm duy nhất biết được thời giờ Đức Ki-tô từ cõi chết phục sinh.”573 Thật vậy, không ai chứng kiến tận mắt chính biến cố Phục Sinh và không một tác giả sách Tin Mừng nào mô tả biến cố đó. Không ai có thể nói sự Phục Sinh đã xảy ra về mặt thể lý như thế nào. Bản chất thâm sâu nhất của biến cố đó, tức là sự chuyển qua một cuộc sống khác, lại càng khó nhận biết bằng giác quan. Sự Phục Sinh, một biến cố lịch sử có thể được xác nhận bằng dấu chỉ là ngôi mộ trống và bằng thực tại là những lần gặp gỡ của các Tông Đồ với Đức Ki-tô phục sinh, vẫn mãi nằm trong trung tâm của mầu nhiệm đức tin, vì biến cố đó siêu việt và vượt hẳn trên lịch sử. Chính vì vậy, Đức Ki-tô phục sinh không tỏ mình ra cho thế gian,574 nhưng cho các môn đệ của Người, “những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân” (Cv 13,31).

II. Sự Phục Sinh – Công trình của Ba Ngôi Chí Thánh (648-650)

648. 258, 989, 663, 445, 272

Sự Phục Sinh của Đức Ki-tô là đối tượng của đức tin, vì đó là sự can thiệp siêu việt của chính Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và trong lịch sử. Trong biến cố này, Ba Ngôi Thiên Chúa vừa cùng hoạt động chung, vừa biểu lộ tính cách riêng biệt của mỗi Ngôi. Sự Phục Sinh được thực hiện do quyền năng của Chúa Cha, Đấng “đã làm sống lại” (Cv 2,24) Đức Ki-tô, Con của Ngài, và bằng cách đó, Chúa Cha đưa nhân tính của Người, cùng với thân thể của Người, vào Ba Ngôi một cách hoàn hảo. Chúa Giê-su được mặc khải một cách vĩnh viễn là “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1,4). Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa biểu lộ quyền năng575 qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho nhân tính đã chết của Chúa Giê-su được sống lại và kêu gọi nhân tính đó vào trạng thái vinh hiển của Chúa.

649. Về phần Chúa Con, Người thực hiện việc Phục Sinh của chính mình bằng sức mạnh của quyền năng thần linh của mình. Chúa Giê-su loan báo rằng Con Người sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết rồi sống lại (động từ với nghĩa chủ động576). Nơi khác, Người xác quyết cách minh nhiên: “Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại… Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,17-18). “Chúng ta tin rằng Chúa Giê-su đã chết và đã sống lại” (1 Tx 4,14).

650. 626, 1005

Các Giáo phụ chiêm ngắm sự Phục Sinh, khởi từ Ngôi Vị thần linh của Đức Ki-tô, Ngôi Vị này vẫn kết hợp với linh hồn Người và thân thể Người, khi hai phần đã bị tách biệt bởi cái chết: “Nhờ sự duy nhất của bản tính Thiên Chúa hiện diện ở cả hai phần của con người, nên hai phần bị chia lìa và tách biệt, lại được tái hợp và liên kết với nhau. Như vậy, sự chết là do sự tách rời những phần vốn kết hợp, còn sự Phục Sinh là do sự kết hợp các phần bị tách rời.”577

III. Ý nghĩa và ảnh hưởng cứu độ của sự Phục Sinh (651-655)

651. 129, 274

“Nếu Đức Ki-tô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14). Trước hết, sự Phục Sinh tạo nên việc xác nhận tất cả những gì chính Đức Ki-tô đã làm và đã giảng dạy. Tất cả các chân lý, kể cả những chân lý mà tâm trí nhân loại không thể đạt tới, đều được biện minh, một khi Đức Ki-tô phục sinh đưa ra lý chứng tối hậu, mà Người đã hứa, về thẩm quyền thần linh của Người.

652. 994, 601

Sự phục sinh của Đức Ki-tô là việc hoàn thành những lời hứa của Cựu Ước578 và của chính Chúa Giê-su trong cuộc đời trần thế của Người.579 Kiểu nói “đúng như lời Thánh Kinh”580 nêu rõ rằng sự phục sinh của Đức Ki-tô đã hoàn thành các lời tiên báo này.

653. 445, 461, 422

Chân lý về thần tính của Chúa Giê-su được xác nhận bằng sự phục sinh của Người. Người đã nói: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Sự phục sinh của Đấng bị đóng đinh chứng minh rằng Người thật sự là “Đấng Hằng Hữu”, là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã có thể tuyên bố với người Do-thái: “Chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Ngài đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Chúa Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong thánh vịnh thứ hai: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Cv 13,32-33).581 Sự Phục Sinh của Đức Ki-tô được liên kết chặt chẽ với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Sự phục sinh là việc hoàn thành mầu nhiệm này theo kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa.

654. 1987, 1996

Trong mầu nhiệm Vượt Qua có hai khía cạnh: Đức Ki-tô, nhờ sự Chết của Người, giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, nhờ sự Phục Sinh của Người, mở đường cho chúng ta tiến vào cuộc sống mới. Trước hết, đây là sự công chính hóa, phục hồi chúng ta trong ân sủng của Thiên Chúa,582 để “cũng như Đức Ki-tô đã được sống lại từ cõi chết…, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4). Đời sống mới này cốt tại việc chiến thắng cái chết của tội lỗi, và việc tham dự mới vào ân sủng.583 Đời sống mới hoàn thành ơn được làm nghĩa tử, bởi vì người ta trở thành anh em của Đức Ki-tô, như chính Chúa Giê-su gọi các môn đệ Người sau cuộc phục sinh của Người: “Về báo cho anh em của Thầy” (Mt 28,10).584 Anh em đây không phải do bản tính, nhưng do hồng ân của ân sủng, bởi vì ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta thật sự thông phần vào sự sống của Người Con Một, sự sống đó đã được mặc khải trọn vẹn trong sự Phục Sinh của Người.

655. 989, 1002

Cuối cùng, sự phục sinh của Đức Ki-tô – và chính Đức Ki-tô phục sinh – là nguyên lý và nguồn mạch cho chúng ta ngày sau được sống lại: “Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu… Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15,20-22). Trong khi mong đợi việc hoàn thành này, Đức Ki-tô phục sinh sống trong trái tim các tín hữu của Người. Nơi Người, các Ki-tô hữu được nếm “những sức mạnh của thế giới tương lai” (Dt 6,5) và đời sống của họ được Đức Ki-tô lôi cuốn vào trong lòng đời sống thần linh,585 “để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5,15).

Tóm lược (656-658) 

656. Đức tin vào sự phục sinh có đối tượng là một biến cố, vừa được xác nhận theo lịch sử bằng lời chứng của các môn đệ, những người đã thật sự gặp Đấng Phục Sinh, đồng thời vừa có tính siêu việt một cách bí nhiệm, xét như là việc nhân tính của Đức Ki-tô tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa.

657. Ngôi mộ trống và những băng vải xếp ở đó tự chúng nói lên rằng, thân thể của Đức Ki-tô, nhờ quyền năng của Thiên Chúa, đã thoát khỏi xiềng xích của sự chết và sự hư nát. Những dấu chỉ đó chuẩn bị các môn đệ để họ gặp gỡ Đấng Phục Sinh.

658. Đức Ki-tô, “trưởng tử trong số những người từ cõi chết” (Cl 1,18), là nguyên lý của sự sống lại của chính chúng ta, ngay bây giờ nhờ sự công chính hóa linh hồn chúng ta,586 và sau này nhờ sự làm cho thân thể chúng ta được sống.587


Chú thích

542 Phụng vụ Byznatin, Troparium in die PaschatisPentekostarion (Romae 1884) 6.

543 X. Cv 9,3-18.

544 X. Ga 20,13; Mt 28,11-15.

545 X. Lc 24,3.22-23.

546 X. Lc 24,12.

547 X. Ga 20,8.

548 X. Ga 20,5-7.

549 X. Ga 11,44.

550 X. Mc 16,1; Lc 24,1.

551 X. Ga 19,31.42.

552 Mt 28,9-10; Ga 20,11-18.

553 X. Lc 24,9-10.

554 X. 1 Cr 15,5.

555 X. Lc 22,31-32.

556 X. Cv 1,22.

557 X. 1 Cr 15,4-8.

558 X. Lc 22,31-32.

559 X. Ga 20,19.

560 X. Mc 16,11.13.

561 X. Lc 24,38.

562 X. Lc 24,39.

563 X. Ga 20,24-27.

564 X. Lc 24,39; Ga 20,27.

565 X. Lc 24,30.41-43; Ga 21,9.13-15.

566 X. Lc 24,39.

567 X. Lc 24,40; Ga 20,20.27.

568 X. Mt 28,9.16-17; Lc 24,15.36; Ga 20,14.19.26; 21,4.

569 X. Ga 20,17.

570 X. Ga 20,14-15.

571 X. Ga 20,14.16; 21,4.7.

572 X. 1 Cr 15,35-50.

573 Canh thức Vượt qua, Công bố Tin Mừng Phục Sinh (“Exsultet”): Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 272.

574 X. Ga 14,22.

575 X. Rm 6,4; 2 Cr 13,4; Pl 3,10; Ep 1,19-22; Dt 7,16.

576 X. Mc 8,31; 9,9.31; 10,34.

577 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, De tridui inter mortem et ressurectionem Domini nostri Iesu Christi spatioGregorii Nysseni opera, ed. W. Jaeger-H. Langerbeck, v. 9 (Leiden 1967) 293-294 (PG 46,417); x. Statuta Ecclesiae Antiqua: DS 325; ĐGH Anastasiô II, Thư In prolixitate epistulae: DS 359; Thánh Hormidas, Thư Inter ea quae: DS 369; CĐ Tôlêđô XI : DS 539.

578 X. Lc 24,26-27.44-48.

579 X. Mt 28,6; Mc 16,7; Lc 24,6-7.

580 X. 1 Cr 15,3-4; Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

581 X. Tv 2,7.

582 X. Rm 4,25.

583 X. Ep 2,4-5; 1 Pr 1,3.

584 X. Ga 20,17.

585 X. Cl 3,1-3.

586 X. Rm 6,4.

 

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

659. 645, 66, 697, 642

“Sau khi nói với họ, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19). Thân thể Đức Ki-tô đã được vinh hiển ngay khi Người sống lại; điều này được chứng tỏ qua các đặc tính mới và siêu phàm mà thân thể của Người được hưởng từ đó và mãi mãi về sau.588 Nhưng trong bốn mươi ngày, khi Người ăn uống thân mật với các môn đệ của Người,589 và dạy dỗ họ về Nước Trời,590 thì vinh quang của Người vẫn còn được che giấu dưới những nét của một nhân tính thông thường.591 Lần hiện ra cuối cùng của Chúa Giê-su được kết thúc bằng việc nhân tính của Người tiến vào vinh quang thần linh một cách vĩnh viễn; vinh quang này được tượng trưng bằng đám mây592 và trời,593 nơi từ nay Người ngự bên hữu Thiên Chúa.594 Một cách ngoại lệ và duy nhất, Người sẽ tỏ mình ra cho thánh Phao-lô “như cho một đứa trẻ sinh non” (1 Cr 15,8) và trong lần cuối cùng này, Người đặt ông làm Tông Đồ.595

660. Tính chất còn che giấu của vinh quang của Đấng Phục Sinh trong thời gian này được soi sáng qua những lời bí nhiệm Người nói với bà Ma-ri-a Mác-đa-la: “Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’” (Ga 20,17). Điều này nói lên sự khác biệt của việc biểu lộ giữa vinh quang của Đức Ki-tô phục sinh và vinh quang của Đức Ki-tô được tôn vinh bên hữu Chúa Cha. Biến cố Lên Trời, vừa có tính lịch sử đồng thời vừa có tính siêu việt, đánh dấu sự chuyển đổi từ vinh quang này đến vinh quang kia.

661. 461, 792

Bước cuối cùng này vẫn liên kết chặt chẽ với bước đầu tiên, nghĩa là với việc từ trời xuống thế, được thực hiện trong việc Nhập Thể. Chỉ có Đấng “từ Chúa Cha mà đến” mới có thể “trở về cùng Chúa Cha”: đó là Đức Ki-tô.596 “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13).597 Nhân loại, với sức tự nhiên của mình, không thể vào được “Nhà Cha”,598 không thể đạt tới sự sống và sự vinh phúc của Thiên Chúa. Chỉ có Đức Ki-tô mới có thể mở lối cho con người tiến vào: “Người lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Đầu và là Thủ lãnh của chúng con đã đến trước.”599

662. 1545, 1137

“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Việc bị giương cao trên thập giá có ý chỉ và loan báo việc được đưa lên trời của mầu nhiệm Thăng Thiên. Thập giá là khởi đầu của Thăng Thiên. Chúa Giê-su Ki-tô, vị Thượng Tế duy nhất của Giao Ước mới và vĩnh cửu, “đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra… nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9,24). Trên trời, Đức Ki-tô thực thi chức tư tế của Người một cách thường hằng, “Người hằng sống để chuyển cầu cho họ” “nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa” (Dt 7,25). Với tư cách là “Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai” (Dt 9,11), Người là trung tâm và là chủ sự của phụng vụ tôn vinh Chúa Cha trên trời.600

663. 648

Đức Ki-tô, từ nay, ngự bên hữu Chúa Cha: “Khi nói rằng Người ngự bên hữu Chúa Cha, chúng ta muốn nói đến danh dự và vinh quang của thần tính, trong đó Con Thiên Chúa, với tư cách là Thiên Chúa và đồng bản thể với Chúa Cha, đã hiện hữu từ trước muôn đời, nay sau khi trở thành xác phàm, Người ngự một cách có thể nói được là thể lý, với thân thể Người đã đảm nhận, trong chính vinh quang đó.”601

664. 541

Việc Đức Ki-tô ngự bên hữu Chúa Cha có nghĩa là sự khai mạc Nước của Đấng Mê-si-a, sự hoàn thành thị kiến của tiên tri Đa-ni-en về Con Người: “Người được trao cho quyền thống trị, vinh quang và Nước; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Nước Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7,14). Kể từ lúc ấy, các Tông Đồ trở thành chứng nhân của “Nước sẽ không bao giờ cùng.”602

Tóm lược (665-667)

665. Cuộc Thăng Thiên của Đức Ki-tô đánh dấu việc nhân tính của Chúa Giê-su vĩnh viễn tiến vào quyền năng thiên giới của Thiên Chúa, từ đó Người sẽ lại đến603, nhưng trong khoảng thời gian đó, việc Thăng Thiên đã che giấu Người khỏi mắt người ta.604

666. Chúa Giê-su Ki-tô, là Đầu của Hội Thánh, đã đi trước chúng ta vào Nước vinh hiển của Chúa Cha, để chúng ta, là chi thể của Thân Thể Người, sống trong niềm hy vọng một ngày kia sẽ được vĩnh viễn ở với Người.

667. Chúa Giê-su Ki-tô, đã tiến vào cung thánh trên trời một lần cho mãi mãi, không ngừng chuyển cầu cho chúng ta với tư cách là Đấng trung gian, Đấng luôn luôn tuôn ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta.


Chú thích

587 X. Rm 8,11.

588 X. Lc 24,31; Ga 20,19.26.

589 X. Cv 10,41.

590 X. Cv 1,3.

591 X. Mc 16,12; Lc 24,15; Ga 20,14-15; 21,4.

592 X. Cv 1,9; Lc 9,34-35; Xh 13,22.

593 X. Lc 24,51.

594 X. Mc 16,19; Cv 2,33; 7,56; Tv 110,1.

595 X. 1 Cr 9,1; Ga 1,16.

596 X. Ga 16,28.

597 X. Ep 4,8-10.

598 X. Ga 14,2.

599 Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Thăng Thiên, ISách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 410.

600 X. Kh 4,6-11.

601 Thánh Gio-an thành Đa-mát, Expositio fidei, 75 [De fide orthodoxa, 4, 2]: PTS 12,173 (PG 94,1104).

602 X. Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

603 X. Cv 1,11.

604 X. Cl 3,3.

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

I. “Người sẽ trở lại trong vinh quang” (668-677)

Đức Ki-tô đã hiển trị nhờ Hội Thánh… (668-670)

668. 450, 518

“Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,9). Việc Đức Ki-tô lên trời cho thấy nhân tính của Người cũng được tham dự vào quyền năng và uy quyền của chính Thiên Chúa. Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa: Người nắm mọi quyền bính trên trời dưới đất. Người “vượt trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được” vì Chúa Cha “đã đặt tất cả dưới chân Người” (Ep 1,20-22). Đức Ki-tô là Chúa của tất cả vũ trụ605 và của lịch sử. Nơi Người, lịch sử của con người, kể cả toàn bộ công trình tạo dựng, tìm gặp được “nơi quy tụ” của mình,606 tột đỉnh siêu việt của mình.

669. 792, 1088, 541

Là Chúa, Đức Ki-tô cũng là Đầu Hội Thánh, Thân Thể của Người.607 Được đưa lên trời và được tôn vinh sau khi chu toàn sứ vụ, Đức Ki-tô vẫn hiện diện nơi trần thế trong Hội Thánh của Người. Công trình cứu chuộc là nguồn mạch của quyền bính mà Đức Ki-tô thực thi trong Hội Thánh bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần.608 “Nước của Đức Ki-tô đã hiện diện một cách mầu nhiệm”609 trong Hội Thánh, là “hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Trời nơi trần thế.”610

670. 1042, 825, 547

Khởi từ cuộc Thăng Thiên, kế hoạch của Thiên Chúa bước vào giai đoạn hoàn thành. Chúng ta đang sống trong “giờ cuối cùng” (1 Ga 2,18).611 “Quả vậy, những thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta và sự canh tân trần gian đã được thiết lập một cách không thể đảo ngược, và trong thời đại này sự canh tân đó đã được tiền dự một cách hiện thực nào đó: thật vậy, Hội Thánh nơi trần gian được ghi dấu bằng sự thánh thiện thật, tuy còn bất toàn.”612 Nước Đức Ki-tô đã biểu lộ sự hiện diện của mình nhờ những dấu chỉ kỳ diệu613 đi kèm theo việc loan báo Nước đó nhờ Hội Thánh.614

… cho tới khi mọi sự quy phục Người (671-672)

671. 1043, 769, 773, 1043, 2046, 2817

Tuy nhiên, Nước Đức Ki-tô, đang hiện diện trong Hội Thánh của Người, chưa phải là tuyệt đối với “quyền năng và vinh quang” (Lc 21,27)615 do việc Vua ngự đến trần gian. Nước này còn bị các thế lực sự dữ tấn công,616 mặc dù chúng đã bị đánh bại tận gốc rễ do cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô. Cho tới khi mọi sự quy phục Người,617 “cho tới khi có trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị, Hội Thánh lữ hành, trong các bí tích và các định chế của mình, vốn là những điều thuộc thời đại này, vẫn mang hình dáng của thời đại chóng qua này và chính Hội Thánh đang sống giữa các thụ tạo còn đang rên siết và quằn quại như sắp sinh nở và mong đợi cuộc tỏ hiện của các con cái Thiên Chúa.”618 Vì vậy, các Ki-tô hữu cầu nguyện, nhất là trong bí tích Thánh Thể,619 để Đức Ki-tô mau lại đến,620 bằng cách thưa với Người: “Lạy Chúa, xin ngự đến!” (Kh 22,20).621

672. 732, 2612

Đức Ki-tô, trước cuộc Thăng Thiên của Người, đã khẳng định rằng chưa đến giờ Người thiết lập Nước của Đấng Mê-si-a một cách vinh hiển mà Ít-ra-en mong đợi,622 Nước đó phải mang lại cho mọi người, theo lời các tiên tri,623 một trật tự vĩnh viễn của công lý, của tình yêu, và của hòa bình. Thời gian hiện tại, theo Chúa, là thời gian của Thần Khí và của việc làm chứng,624 nhưng cũng là thời gian được ghi dấu bằng nỗi khó khăn hiện tại625 và bằng sự thử thách của sự dữ,626 thời gian này không buông tha Hội Thánh,627 và khởi đầu cuộc chiến của những ngày sau cùng.628 Đây là thời gian của sự mong đợi và tỉnh thức.629

Bài này đã được xem 5590 lần!

Pages ( 25 of 96 ): <1 ... 2324 25 2627 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]