Việc Ngự đến vinh hiển của Đức Ki-tô, niềm hy vọng của Ít-ra-en (673-674)
673. 1040, 1048
Sau cuộc Thăng Thiên, việc Ngự đến trong vinh quang của Đức Ki-tô luôn gần kề,630 mặc dù chúng ta “không biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1,7).631 Biến cố cánh chung này có thể xảy ra bất cứ lúc nào,632 mặc dù chính biến cố đó cũng như cuộc thử thách cuối cùng phải xảy ra trước biến cố đó, còn được “trì hoãn.”633
674. 840, 58
Việc Ngự đến của Đấng Mê-si-a vinh hiển vào bất cứ lúc nào trong lịch sử tùy thuộc634 vào việc Người được nhận biết bởi “toàn thể Ít-ra-en”635 mà một phần dân ấy còn cứng lòng636 “không tin” (Rm 11,20) vào Chúa Giê-su. Thánh Phê-rô nói với người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem sau lễ Ngũ Tuần: “Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Ngài xóa bỏ tội lỗi cho anh em. Như vậy, thời kỳ an lạc mà Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi Ngài sai Đấng Ki-tô Ngài đã dành cho anh em, là Chúa Giê-su. Chúa Giê-su còn phải được giữ lại trên trời, cho đến thời phục hồi vạn vật, thời mà Thiên Chúa đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ của Ngài mà loan báo tự ngàn xưa” (Cv 3,19-21). Thánh Phao-lô cũng nhắc lại điều đó: “Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11,15). Việc gia nhập của đông đủ người Do-thái637 vào ơn cứu độ của Đấng Mê-si-a, sau việc gia nhập đông đủ của các dân ngoại,638 sẽ làm cho dân Chúa đạt “tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,13), trong đó, “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28).
Cuộc thử thách cuối cùng của Hội Thánh (675-677)
675. 769
Trước cuộc Ngự đến của Đức Ki-tô, Hội Thánh phải trải qua một cuộc thử thách cuối cùng, làm lung lạc đức tin của nhiều tín hữu.639 Cuộc bách hại, luôn đi theo Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian,640 sẽ làm lộ rõ “mầu nhiệm sự dữ” dưới hình thức một sự đánh lừa về tôn giáo, có vẻ như mang đến cho người ta một giải pháp về các vấn đề của họ với giá phải trả là sự chối bỏ chân lý. Sự đánh lừa về tôn giáo ở mức cao nhất là của tên Phản Ki-tô, nghĩa là, của một chủ nghĩa Mê-si-a giả hiệu, trong đó con người tự tôn vinh chính mình thay vì tôn vinh Thiên Chúa và Đấng Mê-si-a của Ngài đã đến trong xác phàm.641
676. 2425
Sự đánh lừa của tên Phản Ki-tô đã được phác họa trên trần gian mỗi khi người ta cho rằng mình thực hiện được trong lịch sử niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a, một niềm hy vọng vốn chỉ có thể được hoàn thành vượt quá giới hạn lịch sử, nhờ cuộc phán xét cánh chung: Hội Thánh đã bác bỏ sự giả mạo này về Vương quốc tương lai, và cả dưới một hình thức giảm nhẹ của sự giả mạo đó, có tên là thuyết ngàn năm (millenarismus),642 nhất là dưới một hình thức chính trị của một chủ thuyết Mê-si-a đã bị tục hóa (messianismus saecularizatus), “đồi bại tự bản chất.”643
677. 1340, 2853
Hội Thánh chỉ tiến vào vinh quang Nước Trời sau cuộc Vượt Qua cuối cùng này, trong đó Hội Thánh đi theo Chúa của mình trong sự chết và sự sống lại của Người.644 Vì vậy, Nước Trời sẽ không được thực hiện bằng một chiến thắng của Hội Thánh trong lịch sử,645 theo một đà tiến từ dưới đi lên nào đó, nhưng bằng sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cuộc tấn công cuối cùng của sự dữ,646 sự chiến thắng đó làm cho Tân nương của Ngài từ trời xuống.647 Chiến thắng của Thiên Chúa trên sự nổi loạn của sự dữ sẽ mang hình thức cuộc Phán Xét cuối cùng,648 sau cuộc đảo lộn cuối cùng khắp vũ trụ của trần gian đang qua đi.649
II. “để phán xét kẻ sống và kẻ chết” (678-679) [1038-1041]
678. 1470
Chúa Giê-su, sau các Tiên tri650 và ông Gio-an Tẩy Giả,651 trong lời rao giảng của mình, đã loan báo cuộc Phán Xét vào ngày tận thế. Lúc đó những cách sống của mỗi người652 và sự kín nhiệm trong các tâm hồn653 được đưa ra ánh sáng. Lúc đó tội cứng lòng tin, tức là tội coi thường ân sủng do Thiên Chúa ban, sẽ bị kết án.654 Cách đối xử với đồng loại sẽ biểu lộ là người ta đã đón nhận hay đã từ chối ân sủng và tình yêu Thiên Chúa.655 Chúa Giê-su sẽ phán trong ngày tận thế: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
679. 1021
Đức Ki-tô là Chúa của sự sống vĩnh cửu. Thẩm quyền đầy đủ để xét xử một cách vĩnh viễn về các công việc và các tâm hồn của mọi người là thuộc về Người, với tư cách là Đấng Cứu Chuộc trần gian. Người “đã đạt được” quyền này nhờ thập giá của Người. Chúa Cha cũng “đã ban cho Người Con mọi quyền xét xử” (Ga 5,22).656 Nhưng Chúa Con không đến để xét xử, mà để cứu độ,657 và để ban sự sống Người có nơi chính mình.658 Qua việc từ chối ân sủng khi còn sống ở đời này, mỗi người tự xét xử chính mình,659 lãnh nhận tùy theo các công việc của mình,660 và cũng có thể tự kết án mình muôn đời khi từ chối Thần Khí tình yêu.661
Tóm lược (680-682)
680. Chúa Ki-tô đã hiển trị nhờ Hội Thánh, nhưng mọi sự ở trần gian này chưa quy phục Người. Chiến thắng của Nước Đức Ki-tô sẽ chỉ đến sau cuộc tấn công cuối cùng của các thế lực sự dữ.
681. Trong Ngày Phán Xét, lúc cùng tận trần gian, Đức Ki-tô sẽ đến trong vinh quang để hoàn thành cuộc chiến thắng vĩnh viễn của sự lành trên sự dữ, cả hai, như lúa tốt và cỏ lùng, đã cùng phát triển trong suốt dòng lịch sử.
682. Đức Ki-tô vinh hiển, khi ngự đến vào lúc cùng tận thời gian để phán xét kẻ sống và kẻ chết, sẽ làm tỏ lộ những điều kín nhiệm trong các tâm hồn và sẽ trả lại cho mỗi người tùy theo các công việc của họ và tùy theo việc họ đã đón nhận hoặc từ chối ân sủng.
Chú thích
605 X. Ep 4,10; 1 Cr 15,24.27-28.
606 X. Ep 1,10.
607 X. Ep 1,22.
608 X. Ep 4,11-13.
609 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
610 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 8.
611 X. 1 Pr 4,7.
612 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
613 X. Mc 16,17-18.
614 X. Mc 16,20.
615 X. Mt 25,31.
616 X. 2 Tx 2,7.
617 X. 1 Cr 15,28.
618 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
619 X. 1 Cr 11,26.
620 X. 2 Pr 3,11-12.
621 X. 1 Cr 16,22; Kh 22,17.
622 X. Cv 1,6-7.
623 X. Is 11,1-9.
624 X. Cv 1,8.
625 X. 1 Cr 7,26.
626 X. Ep 5,16.
627 X. 1 Pr 4,17.
628 X. 1 Ga 2,18; 4,3; 1 Tm 4,1.
629 X. Mt 25,1-13; Mc 13,33-37.
630 X. Kh 22,20.
631 X. Mc 13,32.
632 X. Mt 24,44; 1 Tx 5,2.
633 X. 2 Tx 2,3-12.
634 X. Rm 11,31.
635 X. Rm 11,26; Mt 23,39.
636 X. Rm 11,25.
637 X. Rm 11,12.
638 X. Rm 11,25; Lc 21,24.
639 X. Lc 18,8; Mt 24,12.
640 X. Lc 21,12; Ga 15,19-20.
641 X. 2 Tx 2,4-12; 1 Tx 5,2-3; 2 Ga 7; 1 Ga 2,18.22.
642 X. Sanctum Officium, Decretum de millenarismo (19-7-1944): DS 3839.
643 X. ĐGH Pi-ô XI, Thông điệp Divini Redemptoris (19-3-1937): AAS 29. (1937) 65-106; CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 20-21: AAS 58 (1966) 1040-1042.
644 X. Kh 19,1-9.
645 X. Kh 13,8.
646 X. Kh 20,7-10.
647 X. Kh 21,2-4.
648 X. Kh 20,12.
649 X. 2 Pr 3,12-13.
650 X. Đn 7,10; Ge 3,4; Ml 3,19.
651 X. Mt 3,7-12.
652 X. Mc 12,38-40.
653 X. Lc 12,1-3; Ga 3,20-21; Rm 2,16; 1 Cr 4,5.
654 X. Mt 11,20-24; 12,41-42.
655 X. Mt 5,22; 7,1-5.
656 X. Ga 5,27; Mt 25,31; Cv 10,42; 17,31; 2 Tm 4,1.
657 X. Ga 3,17.
658 X. Ga 5,26.
659 X. Ga 3,18;12,48.
660 X. 1 Cr 3,12-15.
661 X. Mt 12,32; Dt 6,4-6; 10,26-31.
CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)
683. 424, 2670, 152, 249
“Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12,3). “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Áp-ba, Cha ơi!’” (Gl 4,6). Sự nhận biết đó của đức tin chỉ có thể có được trong Chúa Thánh Thần. Để được hiệp thông với Đức Ki-tô, trước hết cần phải được Chúa Thánh Thần đánh động. Ngài đến với chúng ta trước và khơi dậy đức tin trong chúng ta. Nhờ phép Rửa Tội của chúng ta, là bí tích đầu tiên của đức tin, mà sự sống, vốn bắt nguồn nơi Chúa Cha và được ban cho chúng ta trong Chúa Con, được truyền thông một cách thân mật và cá vị bởi Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh:
Bí tích Rửa Tội “ban cho chúng ta ơn tái sinh trong Chúa Cha, nhờ Con của Ngài, trong Chúa Thánh Thần. Bởi vì những ai mang Thần Khí Thiên Chúa, thì được dẫn đến với Ngôi Lời, nghĩa là đến với Chúa Con; nhưng Chúa Con trình diện họ với Chúa Cha và Chúa Cha ban cho họ sự bất diệt. Vì vậy, không có Thần Khí thì không thể thấy Con Thiên Chúa, và không có Chúa Con thì không ai có thể đến gần Chúa Cha, bởi vì Chúa Con là sự nhận biết Chúa Cha, và sự nhận biết Con Thiên Chúa là nhờ Chúa Thánh Thần.”1
684. 236
Chúa Thánh Thần, bằng ân sủng của mình, là Đấng đầu tiên trong việc khơi dậy đức tin của chúng ta và trong sự sống mới, sự sống đó là nhận biết Chúa Cha và Đấng Chúa Cha đã sai đến là Chúa Giê-su Ki-tô.2 Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần lại là Đấng cuối cùng trong cuộc mặc khải các Ngôi Vị trong Ba Ngôi Chí Thánh. Thánh Grêgôriô thành Nazien, “Nhà thần học”, giải thích tiến trình này qua đường lối sư phạm là “sự hạ cố” của Thiên Chúa:
“Cựu Ước đã giảng dạy một cách tỏ tường về Chúa Cha, nhưng một cách hơi lờ mờ về Chúa Con. Rồi Tân Ước cho chúng ta thấy cách rõ ràng về Chúa Con, và trình bày một cách lờ mờ nào đó về thần tính của Chúa Thánh Thần. Còn bây giờ, chính Thần Khí ngự giữa chúng ta và công bố cho chúng ta một cách tỏ tường hơn về Ngài. Quả vậy, sẽ là không khôn ngoan, nếu thần tính của Chúa Cha chưa được tuyên xưng, mà đã giảng dạy cách tỏ tường về Chúa Con; và nếu thần tính của Chúa Con chưa được đón nhận, thì việc giảng dạy về Chúa Thánh Thần, nói một cách quá đáng, là như chất thêm một gánh khá nặng cho chúng ta:… Nhờ những tiếp cận âm thầm thích hợp hơn và… những tiến dần lên, rồi những phát triển và tăng tiến ‘từ sự sáng sủa này đến sự sáng sủa khác’, ánh sáng của mầu nhiệm Ba Ngôi chiếu tỏa những tia sáng rạng ngời.”3
685. 236
Vì vậy, tin vào Chúa Thánh Thần là tuyên xưng rằng Ngài là Một trong Ba Ngôi Chí Thánh, đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Con, “được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.”4 Do đó, vấn đề về mầu nhiệm thần linh của Chúa Thánh Thần đã được trình bày trong “thần học về Ba Ngôi.” Vì vậy ở đây, chúng ta chỉ bàn về Chúa Thánh Thần trong “Nhiệm cục” thần linh.
686. 258
Chúa Thánh Thần cùng hoạt động với Chúa Cha và Chúa Con từ lúc khởi đầu cho đến khi hoàn tất kế hoạch cứu độ chúng ta. Nhưng chỉ trong “thời sau hết”, bắt đầu từ cuộc Nhập Thể cứu chuộc của Chúa Con, Chúa Thánh Thần mới được mặc khải và truyền thông, được nhận biết và đón nhận với tư cách là một Ngôi Vị. Lúc đó kế hoạch của Thiên Chúa, được hoàn thành trong Đức Ki-tô, Đấng là “Trưởng tử” và là Đầu của công trình tạo dựng mới, đã có thể được thành hình cụ thể trong nhân loại nhờ việc tuôn đổ Thần Khí: Hội Thánh, các Thánh thông công, phép tha tội, xác phàm sẽ sống lại, và sự sống đời đời.
Đề mục
Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)
Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công giáo” (748-975)
Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)
Tiết 2: Hội Thánh – Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)
Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền (811-870)
Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)
Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]
Tiết 6: Đức Ma-ri-a – Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)
Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)
Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)
Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)
Chú thích
1 Thánh I-rê-nê, Demonstratio praedicationis apostolicae, 7: SC 62,41-42.
2 X. Ga 17,3.
3 Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 31 (Theologica 5), 26: SC 250,326 (PG 36,161-164).
4 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.
Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)
687. 243
“Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa” (1 Cr 2,11). Tuy nhiên, Thần Khí, Đấng mặc khải Thiên Chúa, làm cho chúng ta nhận biết Đức Ki-tô, Ngôi Lời hằng sống của Thiên Chúa, lại không nói về chính mình Ngài. “Ngài đã dùng các Tiên tri mà phán dạy”5 để giúp chúng ta nghe được Lời của Chúa Cha. Nhưng chúng ta không nghe tiếng Chúa Thánh Thần. Chúng ta chỉ nhận biết Ngài trong tiến trình Ngài mặc khải Ngôi Lời cho chúng ta và chuẩn bị cho chúng ta đón nhận Ngôi Lời trong đức tin. Thần chân lý, Đấng “vén màn” Đức Ki-tô cho chúng ta, không nói về chính mình Ngài.6 Sự ẩn mình mang tính chất thần linh cách riêng biệt như vậy giải thích tại sao Ngài là “Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài” còn những ai tin vào Đức Ki-tô, thì nhận biết Ngài, bởi vì Ngài luôn ở với họ (Ga 14,17).
688. Hội Thánh, sự hiệp thông sống động trong đức tin của các Tông Đồ do chính Hội Thánh lưu truyền, là môi trường để chúng ta nhận biết Chúa Thánh Thần:
– trong Thánh Kinh do Ngài linh hứng;
– trong Thánh Truyền, mà các Giáo phụ là những chứng nhân luôn hiện đại;
– trong Huấn quyền của Hội Thánh, được Ngài trợ lực;
– trong phụng vụ bí tích, qua các lời nói và các biểu tượng của bí tích, trong đó Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được hiệp thông với Đức Ki-tô;
– trong kinh nguyện, chính Ngài chuyển cầu cho chúng ta;
– trong các đặc sủng và các thừa tác vụ, nhờ đó Hội Thánh được xây dựng;
– trong các dấu chỉ của đời sống tông đồ và thừa sai;
– trong chứng từ của các Thánh, qua đó Ngài biểu lộ sự thánh thiện của Ngài và tiếp tục công trình cứu độ.
I. Sứ vụ phối hợp của Chúa Con và Chúa Thánh Thần (689-690)
689. 245, 254, 485
Đấng mà Chúa Cha đã sai đến trong tâm hồn chúng ta, Thần Khí của Con Ngài,7 Đấng ấy thật sự là Thiên Chúa. Là Đấng đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Con, Ngài không thể bị tách biệt khỏi Chúa Cha và Chúa Con, trong đời sống thâm sâu của Ba Ngôi cũng như trong hồng ân tình yêu của Ba Ngôi dành cho trần gian. Nhưng đức tin của Hội Thánh, khi tôn thờ Ba Ngôi Chí Thánh ban sự sống, đồng bản thể và không thể phân chia, cũng tuyên xưng sự phân biệt giữa các Ngôi Vị. Khi Chúa Cha sai Lời của Ngài đến, Ngài luôn sai Thần Khí của Ngài nữa: một sứ vụ phối hợp trong đó Chúa Con và Chúa Thánh Thần được phân biệt, nhưng không thể tách biệt. Đức Ki-tô là Đấng xuất hiện vì Người là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình, nhưng chính Chúa Thánh Thần là Đấng mặc khải Đức Ki-tô.
690. 448, 436, 788
Chúa Giê-su là Đức Ki-tô, “Đấng được xức dầu”, bởi vì Thần Khí là sự Xức dầu của Người, và mọi sự xảy ra khởi từ cuộc Nhập Thể, đều bắt nguồn từ sự sung mãn này.8 Sau cùng, khi Đức Ki-tô được tôn vinh,9 đến lượt Người, Người có thể sai Thần Khí từ nơi Chúa Cha đến với những ai tin vào Người: Người truyền thông cho họ vinh quang của mình,10 nghĩa là truyền thông Chúa Thánh Thần, Đấng tôn vinh Người.11 Từ lúc đó, sứ vụ phối hợp này được mở rộng đến những người được Chúa Cha nhận làm nghĩa tử trong thân thể của Con Ngài: sứ vụ của Thần Khí nghĩa tử sẽ là kết hợp họ với Đức Ki-tô và làm cho họ sống trong Người.
“Việc Xức dầu nói lên ý nghĩa là không có khoảng cách nào giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần; cũng như lý trí và giác quan không nhận thấy một trung gian nào giữa da thịt và dầu xức, thì sự kết hợp giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng không thể phân chia như vậy, đến độ ai muốn tiếp xúc với Đức Ki-tô bằng đức tin, cần phải tiếp xúc với dầu trước đã: quả vậy, không có chi thể nào, mà không có Chúa Thánh Thần. Vì vậy, việc tuyên xưng quyền làm Chúa của Chúa Con được thực hiện trong Chúa Thánh Thần do những kẻ đón nhận Chúa Con, những người này được Chúa Thánh Thần từ muôn phương đến gặp khi họ đến với Chúa Con bằng đức tin.”12
II. Danh xưng, các danh hiệu và các biểu tượng của Chúa Thánh Thần (691-701)
Danh xưng riêng của Chúa Thánh Thần (691)
691. “Chúa Thánh Thần” là danh xưng riêng của Đấng chúng ta phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Hội Thánh đã lãnh nhận danh xưng này từ Chúa Giê-su và tuyên xưng danh này trong bí tích Rửa Tội của những người con mới của mình.13
Từ “Thần Khí” xuất phát từ chữ Ruah trong tiếng Do-thái và có nghĩa đầu tiên là hơi thở, không khí, gió. Chúa Giê-su dùng đúng hình ảnh khả giác “gió” để gợi ý cho ông Ni-cô-đê-mô hiểu sự mới mẻ siêu việt của Đấng, theo Ngôi Vị, là Hơi Thở của Thiên Chúa, là Thần Khí.14 Đàng khác, “Thánh” và “Thần” là những thuộc tính thần linh chung cho Ba Ngôi Vị thần linh. Nhưng Thánh Kinh, phụng vụ và ngôn ngữ thần học, khi kết hợp hai từ đó lại với nhau, muốn nói cách riêng đến Ngôi Vị khôn tả của Chúa Thánh Thần, không thể nào lẫn lộn với những cách sử dụng khác của các từ “thánh” và “thần.”
Những danh hiệu của Chúa Thánh Thần (692-693)
692. 1433
Khi Chúa Giê-su loan báo và hứa rằng Chúa Thánh Thần sẽ ngự đến, Người gọi Chúa Thánh Thần là “Đấng Bào Chữa” (Paracletus), hoặc sát chữ là “Đấng được gọi đến bên mình”, advocatus (Ga 14,16.26; 15,26; 16,7). Paracletus cũng thường được dịch là “Đấng An ủi”, và Chúa Giê-su là Đấng An ủi thứ nhất.15 Chính Chúa gọi Chúa Thánh Thần là “Thần chân lý.”16
693. Ngoài danh xưng riêng của Ngài, rất thường được dùng trong sách Công Vụ Tông Đồ và các Thánh Thư, ta còn thấy những danh hiệu nơi thánh Phao-lô như sau: Thần Khí của lời hứa (Ep 1,13; Gl 3,14), Thần Khí nghĩa tử (Rm 8,15; Gl 4,6), Thần Khí của Đức Ki-tô (Rm 8,9) Thần Khí của Chúa (2 Cr 3,17), Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8,9.14; 15,19; 1 Cr 6,11; 7,40); và nơi thánh Phê-rô: Thần Khí của vinh quang (1 Pr 4,14).
Những biểu tượng chỉ Chúa Thánh Thần (694-701)
694. 1218, 2652
Nước. Trong bí tích Rửa Tội, nước là một biểu tượng nói lên tác động của Chúa Thánh Thần, vì vậy, sau lời khẩn cầu Chúa Thánh Thần, nước trở thành dấu chỉ bí tích hữu hiệu của việc tái sinh: giống như trong lần sinh ra thứ nhất chúng ta được cưu mang trong nước, thì cũng vậy, nước Rửa Tội thật sự nói lên rằng việc chúng ta được sinh vào đời sống thần linh được ban trong Chúa Thánh Thần. Nhưng, “chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí”, “và tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12,13): Vì vậy, đích thân Thần Khí cũng là Nước hằng sống, chảy ra từ Đức Ki-tô chịu đóng đinh thập giá17 như từ nguồn mạch của mình, và vọt ra thành sự sống vĩnh cửu trong chúng ta.18
Bài này đã được xem 5604 lần!