“Mừng vui lên, hỡi người đầy ân phúc” (721-726)
721. 484
Đức Ma-ri-a, Mẹ rất thánh của Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, là công trình tuyệt tác của sứ vụ phối hợp giữa Chúa Con và Thần Khí lúc thời gian viên mãn. Trong kế hoạch cứu độ, bởi vì Thần Khí Thiên Chúa đã chuẩn bị Mẹ, lần đầu tiên Chúa Cha đã tìm được Chỗ Ở, nơi Con của Ngài và Thần Khí của Ngài có thể cư ngụ giữa loài người. Theo ý nghĩa này, Truyền thống Hội Thánh thường đọc những bản văn đẹp nhất viết về đức Khôn Ngoan trong tương quan với Đức Ma-ri-a:90 trong phụng vụ, Đức Ma-ri-a được ca ngợi và được trình bày như là “Tòa Đấng Khôn Ngoan.”
Nơi Đức Ma-ri-a, “những kỳ công của Thiên Chúa” mà Thần Khí sắp hoàn thành trong Đức Ki-tô và trong Hội Thánh, bắt đầu được biểu lộ.
722. 489, 2676
Chúa Thánh Thần đã dùng ân sủng của Ngài mà chuẩn bị Đức Ma-ri-a. Mẹ của Đấng “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9) tất phải “đầy ơn phúc.” Đức Ma-ri-a đã được thụ thai, trong ân sủng thuần tuý, không hề có tội, với tư cách là người khiêm tốn nhất trong các thụ tạo, xứng đáng nhất trong mọi người để đón nhận hồng ân khôn tả của Đấng Toàn Năng. Thiên thần Gáp-ri-en chào Mẹ cách chính xác là “Con gái Xi-on”: “Kính mừng” (= “Mừng vui lên”).91 Chính Mẹ, trong bài thánh ca của mình,92 đã làm cho lời tạ ơn của toàn dân Thiên Chúa và của Hội Thánh lên tới Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, khi Mẹ cưu mang nơi mình Chúa Con vĩnh cửu.
723. 485, 506
Nơi Đức Ma-ri-a, Chúa Thánh Thần thực hiện kế hoạch nhân ái của Chúa Cha. Bởi Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ đã thụ thai và sinh hạ Con Thiên Chúa. Sự đồng trinh mà vẫn sinh con của Mẹ là độc nhất vô nhị nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần và của đức tin.93
724. 963
Nơi Đức Ma-ri-a, Chúa Thánh Thần làm tỏ hiện Con của Chúa Cha đã trở thành Con của Đức Trinh Nữ. Mẹ là bụi gai bừng cháy của cuộc Thần hiện tối hậu: chính Mẹ, được đầy tràn Chúa Thánh Thần, tỏ cho thấy Ngôi Lời trong xác phàm khiêm hạ của Người, và làm cho những kẻ nghèo hèn94 và những của đầu mùa của các dân tộc95 nhận biết Người.
725. 208, 2619
Cuối cùng, qua Đức Ma-ri-a, Chúa Thánh Thần bắt đầu làm cho được hiệp thông với Đức Ki-tô, những người là đối tượng của tình yêu nhân ái của Thiên Chúa (“những người thiện tâm” của Thiên Chúa96), và những người khiêm hạ luôn luôn là những người đầu tiên đón nhận Người: các mục đồng, các đạo sĩ, ông Simêon và bà An-na, cô dâu chú rể ở Ca-na và các môn đệ đầu tiên.
726. 494, 2618
Vào cuối sứ vụ này của Chúa Thánh Thần, Đức Ma-ri-a trở nên “Người Đàn Bà”, bà E-và mới, “Mẹ của chúng sinh”, Mẹ của “Đức Ki-tô toàn thể” (“totius Christi” Mater).97 Chính với tư cách này, Mẹ hiện diện với nhóm Mười Hai, “đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện” (Cv 1,14), vào lúc bình minh của “thời đại cuối cùng” mà Thần Khí sắp khai mạc vào sáng ngày lễ Ngũ Tuần với việc làm tỏ hiện Hội Thánh.
Đức Ki-tô Giê-su (727-730)
727. 438, 695, 536
Toàn bộ sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong thời gian viên mãn tập trung vào sự kiện Chúa Con là Đấng Được Xức Dầu bằng Thần Khí của Chúa Cha khởi từ cuộc Nhập Thể của Người: Chúa Giê-su là Đức Ki-tô, Đấng Mê-si-a.
Toàn bộ chương hai của Tín biểu phải được đọc dưới ánh sáng này. Toàn bộ công trình của Đức Ki-tô là sứ vụ phối hợp của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần. Ở đây, chúng ta sẽ chỉ đề cập những gì liên quan đến lời Chúa Giê-su hứa ban Thánh Thần và việc Người thực hiện lời hứa đó sau khi Người được tôn vinh.
728. 2615
Chúa Giê-su không mặc khải trọn vẹn Chúa Thánh Thần, cho tới khi Người được tôn vinh qua cái Chết và sự Sống lại của Người. Tuy nhiên, Người cũng dần dần gợi ý về Chúa Thánh Thần khi Người giảng dạy dân chúng, khi Người mặc khải Thịt của Người sẽ là của ăn cho thế gian được sống.98 Người cũng gợi ý cho ông Ni-cô-đê-mô,99 cho người phụ nữ Sa-ma-ria100 và những người tham dự Lễ Lều.101 Người nói cách tỏ tường cho các môn đệ của Người nhân khi dạy họ cầu nguyện102 và khi báo trước việc họ phải là nhân chứng cho Người.103
729. 388, 1433
Chỉ khi đến Giờ Chúa Giê-su phải được tôn vinh, Người mới hứa rằng Chúa Thánh Thần sẽ ngự đến, vì cái Chết và sự Sống lại của Người sẽ là sự hoàn thành Lời đã hứa với các Tổ phụ:104 Thần chân lý, Đấng Bào Chữa khác, sẽ được Chúa Cha ban nhờ lời cầu xin của Chúa Giê-su; chính Ngài sẽ được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Giê-su; Chúa Giê-su sẽ sai Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha mà đến, bởi vì Ngài xuất phát từ Chúa Cha. Chúa Thánh Thần sẽ đến, và chúng ta sẽ nhận biết Ngài, Ngài sẽ ở cùng chúng ta mãi mãi, Ngài sẽ cư ngụ với chúng ta; Ngài sẽ dạy dỗ chúng ta mọi sự và nhắc cho chúng ta nhớ tất cả những gì Chúa Giê-su đã nói, và Ngài sẽ làm chứng cho Đức Ki-tô; Ngài sẽ dẫn chúng ta đến chân lý trọn vẹn và sẽ tôn vinh Đức Ki-tô. Còn đối với thế gian, Ngài sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính, và về việc xét xử.
730. 850
Cuối cùng, Giờ của Chúa Giê-su đã đến:105 Chúa Giê-su phó thác thần khí của Người trong tay Chúa Cha106 vào đúng lúc Người toàn thắng sự chết bằng cái Chết của mình, đến độ khi “sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha” (Rm 6,4), Người liền “thổi hơi” ban Chúa Thánh Thần trên các môn đệ của Người.107 Từ Giờ đó, sứ vụ của Đức Ki-tô và của Chúa Thánh Thần trở thành sứ vụ của Hội Thánh: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).108
V. Thần Khí và Hội Thánh trong thời đại cuối cùng (731-741)
Lễ Ngũ Tuần (731-732)
731. 2623, 767, 1302
Ngày lễ Ngũ Tuần (vào cuối bảy tuần mừng lễ Vượt Qua), cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô được hoàn thành bằng việc tuôn đổ Chúa Thánh Thần, Đấng được biểu lộ, được ban, và được truyền thông với tư cách là một Ngôi Vị thần linh: Chúa Ki-tô từ nguồn sung mãn của Người tuôn đổ cách đầy tràn Thần Khí của Người.109
732. 244, 672
Trong ngày đó, mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh được mặc khải trọn vẹn. Sau ngày đó, Nước mà Đức Ki-tô đã loan báo, được mở ra cho những ai tin vào Người: trong sự khiêm hạ của xác phàm và trong đức tin, họ đã được tham dự vào sự hiệp thông của Ba Ngôi Chí Thánh. Chúa Thánh Thần, nhờ việc Ngài ngự đến, mà Ngài không ngừng ngự đến, dẫn đưa trần gian vào “thời đại cuối cùng”, thời đại của Hội Thánh, vào Nước đã được sở hữu làm gia sản, nhưng chưa hoàn tất:
“Chúng ta đã thấy Ánh sáng thật, chúng ta đã lãnh nhận Thánh Thần Thiên Chúa, chúng ta đã tìm được đức tin chân chính: chúng ta tôn thờ Ba Ngôi bất khả phân ly, vì chính Ba Ngôi đã cứu độ chúng ta.”110
Chúa Thánh Thần – Hồng ân của Thiên Chúa (733-736)
733. 218
“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8.16) và tình yêu là hồng ân đầu tiên, chứa đựng tất cả mọi sự khác. Tình yêu này “Thiên Chúa đã đổ vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
734. 1987
Bởi vì do tội mà chúng ta chết hoặc ít nhất là bị thương, nên hiệu quả đầu tiên của hồng ân tình yêu là ơn tha thứ các tội của chúng ta. Chính “ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2 Cr 13,13) trong Hội Thánh phục hồi những người đã được Rửa Tội trở lại tình trạng “giống như” Thiên Chúa mà họ đã đánh mất vì tội lỗi.
735. 1822
Lúc đó Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta “bảo chứng” hoặc “những ân huệ khởi đầu” của phần gia sản của chúng ta:111 đó là chính sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh, là yêu thương “như chính Ngài đã yêu thương chúng ta.”112 Tình yêu này (Đức mến của 1 Cr 13) là nguyên lý của đời sống mới trong Đức Ki-tô, nay có thể thực hiện được bởi vì chúng ta đã lãnh nhận “sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống” (Cv 1,8).
736. 1832
Nhờ sức mạnh đó của Chúa Thánh Thần, các con cái Thiên Chúa có thể mang lại hoa trái. Đấng đã tháp chúng ta vào Cây Nho thật, sẽ làm cho chúng ta mang lại hoa trái của Thần Khí, là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23). Thần Khí là sự sống của chúng ta; chúng ta càng từ bỏ chính mình,113 Thần Khí càng làm cho chúng ta hoạt động.114
“Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta được phục hồi để vào thiên đàng, được dẫn lên Nước Trời, được ban ơn làm nghĩa tử: chúng ta được vững lòng để gọi Thiên Chúa là Cha của mình, và thông phần vào ân sủng của Đức Ki-tô, được gọi là con cái ánh sáng và dự phần vào vinh quang vĩnh cửu.”115
Chúa Thánh Thần và Hội Thánh (737-741)
737. 787-798, 1093-1109
Sứ vụ của Đức Ki-tô và của Chúa Thánh Thần được thực hiện trong Hội Thánh, là Thân Thể Đức Ki-tô và Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Sứ vụ phối hợp này từ nay đưa các tín hữu của Đức Ki-tô vào sự hiệp thông của Người với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần: Thần Khí chuẩn bị người ta, Ngài đến với họ trước bằng ân sủng của Ngài để lôi kéo họ đến với Đức Ki-tô. Chính Ngài làm tỏ hiện Chúa phục sinh cho họ, nhắc cho họ nhớ Lời của Người và mở trí cho họ hiểu được sự Chết và sự Sống Lại của Người. Ngài làm cho mầu nhiệm của Đức Ki-tô hiện diện cho họ, nhất là trong bí tích Thánh Thể, để hòa giải họ, và cho họ được hiệp thông với Thiên Chúa, để làm cho họ “mang lại nhiều hoa trái.”116
738. 850, 777
Như vậy, sứ vụ của Hội Thánh không phải là được thêm vào sứ vụ của Đức Ki-tô và của Chúa Thánh Thần, nhưng là bí tích của sứ vụ đó: Hội Thánh, tự bản chất và trong tất cả các chi thể của mình, được sai đi để loan báo và làm chứng, hiện tại hóa và truyền bá mầu nhiệm hiệp thông của Ba Ngôi Chí Thánh (đây sẽ là nội dung của mục kế tiếp):
“Tất cả chúng ta đã lãnh nhận cùng một Thần Khí duy nhất là Thánh Thần, nên một cách nào đó chúng ta được kết hợp với nhau và với Thiên Chúa. Mặc dầu chúng ta nhiều người, và mặc dầu Đức Ki-tô đã làm cho Thần Khí của Chúa Cha và của Người cư ngụ trong mỗi người chúng ta, Thần Khí vẫn là một và không thể phân chia, Ngài quy tụ những thần trí riêng rẽ… trong sự hợp nhất nhờ chính Ngài và làm cho tất cả như nên một trong Ngài. Cũng như sức mạnh của Mình Thánh Chúa Ki-tô làm cho những ai ăn Mình Thánh Người được thuộc về một thân thể duy nhất như thế nào, thì cũng một cách đó, theo tôi nghĩ, Thần Khí duy nhất và không thể phân chia của Thiên Chúa đang ngự trong mọi người, cũng đưa mọi người đến sự hợp nhất tinh thần như vậy.”117
739. 1076
Bởi vì Chúa Thánh Thần là sự Xức Dầu của Đức Ki-tô, nên Đức Ki-tô, là Đầu của thân thể, tuôn đổ Thánh Thần cho các chi thể của Người để nuôi dưỡng và chữa lành họ, cắt đặt họ vào trong các phận vụ đối với nhau, làm cho họ được sống, sai họ đi làm chứng, liên kết họ vào việc Người dâng mình lên Chúa Cha và vào việc Người chuyển cầu cho khắp cả trần gian. Qua các bí tích của Hội Thánh, Đức Ki-tô truyền thông cho các chi thể của Người Thần Khí của Người, là Đấng Thánh và là Đấng Thánh Hóa (đây sẽ là nội dung của Phần Thứ Hai của Sách Giáo Lý này).
740. “Những kỳ công của Thiên Chúa” đang nói ở đây, được ban cho các tín hữu trong các bí tích của Hội Thánh, sẽ mang lại hoa trái trong đời sống mới trong Đức Ki-tô theo Thần Khí (đây sẽ là nội dung của Phần Thứ Ba của Sách Giáo Lý này).
741. “Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rm 8,26). Chúa Thánh Thần, Đấng thực hiện các công trình của Thiên Chúa, là Thầy dạy cầu nguyện (đây sẽ là nội dung của Phần Thứ Tư của Sách Giáo Lý này).
Tóm lược (742-747)
742. “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Áp-ba, Cha ơi” (Gl 4,6).
743. Từ lúc khởi đầu cho đến lúc hoàn tất thời gian, khi Thiên Chúa sai Con của Ngài, Ngài luôn luôn sai Thần Khí của Ngài: Sứ vụ của hai Ngôi được phối hợp và không thể tách biệt nhau..
744. Khi thời gian đến hồi viên mãn, Chúa Thánh Thần hoàn thành nơi Đức Ma-ri-a mọi công cuộc chuẩn bị để Đức Ki-tô ngự đến giữa dân của Thiên Chúa. Qua hành động của Chúa Thánh Thần nơi Đức Ma-ri-a, Chúa Cha ban cho trần gian Đấng Em-ma-nu-en, Đấng là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).
745. Con Thiên Chúa qua việc Xức Dầu bằng Chúa Thánh Thần được thánh hiến làm Đức Ki-tô (Đấng Mê-si-a) trong cuộc Nhập Thể của Người.118
746. Chúa Giê-su, nhờ sự Chết và sự Sống lại của Người, được thiết đặt làm Chúa và làm Đức Ki-tô trong vinh quang.119 Chính Người, từ nguồn sung mãn của mình, tuôn đổ Chúa Thánh Thần trên các Tông Đồ và trên Hội Thánh.
747. Chúa Thánh Thần, Đấng mà Đức Ki-tô là Đầu đã tuôn đổ cho các chi thể của Người, xây dựng, ban sinh khí và thánh hóa Hội Thánh. Hội Thánh là bí tích của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Chí Thánh và loài người.
Chú thích
5 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.
6 X. Ga 16,13.
7 X. Gl 4,6.
8 X. Ga 3,34.
9 X. Ga 7,39.
10 X. Ga 17,22.
11 X. Ga 16,14.
12 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, Adversus Macedonianos de Spiritu Sancto, 16: Gregorii Nysseni opera, ed.W. Jaeger-H. Langerbeck, v. 3/1 (Leiden 1958) 102-103 (PG 45,1321).
13 X. Mt 28,19.
14 X. Ga 3,5-8.
15 X. 1 Ga 2,1 (parakleton).
16 X. Ga 16,13.
17 X. Ga 19,34; 1 Ga 5,8.
18 X. Ga 4,10-14; 7,38; Xh 17,1-6; Is 55,1; Dcr 14,8; 1 Cr 10,4; Kh 21,6; 22,17.
19 X. 1 Ga 2,20.27; 2 Cr 1,21.
20 X. Xh 30,22-32.
21 X. 1 Sm 16,13.
22 X. Lc 4,18-19; Is 61,1.
23 X. Lc 2,11.
24 X. Lc 2,26-27.
25 X. Lc 4,1.
26 X. Lc 6,19; 8,46.
27 X. Rm 1,4; 8,11.
28 X. Cv 2,36.
29 Thánh Augustinô, Sermo 341,1,1: PL 39,1493; Ibid. 9,11: PL 34,1499.
30 X. 1 V 18,38-39.
31 X. Cv 2,3-4.
32 X. Thánh Gio-an Thánh Giá, Llama de amor viva: Biblioteca Mistica Carmelitana, v. 13 (Burgos 1931) 1-102; 103-213.
33 X. Xh 24,15-18.
34 X. Xh 33,9-10.
35 X. Xh 40,36-38; 1 Cr 10,1-2.
36 X. 1 V 8,10-12.
37 X. Lc 1,35.
38 X. Cv 1,9.
39 X. Lc 21,27.
40 X. 2 Cr 1,22; Ep 1,13; 4,30.
41 X. Mc 6,5; 8,23.
42 X. Mc 10,16.
43 X. Mc 16,18; Cv 5,12; 14,3.
44 X. Cv 8,17-19; 13,3; 19,6.
45 X. Dt 6,2.
46 X. Lc 11,20.
47 Chúa Nhật Hiện Xuống, Thánh Thi Kinh Chiều I và II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 795 và 812.
48 X. St 8,8-12.
49 X. Mt.3,16 và song song.
50 X. Gl 4,4.
51 X. 2 Cr 3,14.
52 X. Ga 5,39.46.
53 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.
54 X. Lc 24,44.
55 X. Tv 33,6; 104,30; St 1,2; 2,7; Gv 3,20-21; Xh 37,10.
56 Officium Horarum Byzantinum. Matutinum pro die Dominica modi secundi, Antiphonae 1 et 2: Parakletikês (Romae 1885) 107.
57 Thánh I-rê-nê, Demonstratio praedicationis apostolicae, 11: SC 62,48-49.
58 X. Rm 3,23.
59 X. Ga 1,14; Pl 2,7.
60 X. St 18,1-15; Lc 1,26-38.54-55; Ga 1,12-13; Rm 4,16-21.
61 X. St 12,3.
62 X. Gl 3,16.
63 X. Ga 11,52.
64 X. Lc 1,73.
65 X. St 22,17-18; Rm 8,32; Ga 3,16.
66 X. Ep 1,13-14; Gl 3,14.
67 X. Xh 19-20; Đnl 1-11; 29-30.
68 X. Gl 3,24.
69 X. Rm 3,20.
70 X. 1 Pr 2,9.
71 X. 2 Sm 7; Tv 89; Lc 1,32-33.
72 X. Lc 24,26.
73 X. Sp 2,3.
74 X. Is 6-12.
75 X. Is 42,1-9; Mt 12,18-21; Ga 1,32-34, atque etiam Is 49,16; Mt 3,17; Lc 2,32, et denique Is 50,4-10 et 52,13-15; 53,12.
76 X. Is 61,1-2.
77 X. Ed 11,19; 36,25-28; 37,1-14; Gr 31,31-34; Ge 3,1-5.
78 X. Cv 2,17-21.
79 X. Sp 2,3; Tv 22,27; 34,3; Is 49,13; 61,1; v.v…
80 X. Lc 1,17.
81 X. Lc 1,41.
82 X. Lc 1,68.
83 X. Mt 17,10-13.
84 X. Lc 7,26.
85 X. Mt 11,13-14.
86 X. Ga 1,23; Is 40,1-3.
87 X. Ga 15,26; 5,33.
88 X. 1 Pr 1,10-12.
89 X. Ga 3,5.
90 X. Cn 8,1-9,6; Hc 24.
91 X. Sp 3,14; Dcr 2,14.
92 X. Lc 1,46-55.
93 X. Lc 1,26-38; Rm 4,18-21; Gl 4,26-28.
94 X. Lc 2,15-19.
95 X. Mt 2,11.
96 X. Lc 2,14.
97 X. Ga 19,25-27.
98 X. Ga 6,27.51.62-63.
99 X. Ga 3,5-8.
100 X. Ga 4,10.14.23-24.
101 X. Ga 7,37-39.
102 X. Lc 11,13.
103 X. Mt 10,19-20.
104 X. Ga 14,16-17.26; 15,26; 16,7-15; 17,26.
105 X. Ga 13,1; 17,1.
106 X. Lc 23,46; Ga 19,30.
107 X. Ga 20,22.
108 X. Mt 28,19; Lc 24,47-48; Cv 1,8.
109 X. Cv 2,33-36.
110 Officium Horarum Byzantinum. Vespertinum in die Pentecostes, Sticherum 4: Pentekostarion (Romae 1884) 390.
111 X. Rm 8,23; 2 Cr 1,22.
112 X. 1 Ga 4,11-12.
113 X. Mt 16,24-26.
114 X. Gl 5,25.
115 Thánh Ba-si-li-ô Cả, Liber de Spiritu Sancto, 15,36: SC 17bis, 370 (PG 32,132).
116 X. Ga 15,5.8.16.
117 Thánh Cyrillô thành A-lê-xan-ri-a, Commentarius in Iohannem 11, 11: PG 74,561.
118 X. Tv 2,6-7.
119 X. Cv 2,36.
Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)
748. “Ánh sáng muôn dân chính là Đức Ki-tô, nên Thánh Công đồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước chiếu giãi trên mọi người ánh sáng của Đức Ki-tô, phản chiếu trên dung nhan Hội Thánh, bằng việc rao truyền Tin Mừng cho mọi thụ tạo.”120 Những lời trên đây mở đầu “Hiến chế tín lý về Hội Thánh” của Công đồng Va-ti-ca-nô II. Như vậy, Công đồng cho thấy đề mục đức tin về Hội Thánh hoàn toàn tùy thuộc vào những đề mục quy chiếu về Chúa Giê-su Ki-tô. Hội Thánh không có ánh sáng nào khác ngoài ánh sáng của Đức Ki-tô; Hội Thánh có thể so sánh, theo hình ảnh các Giáo phụ thích dùng, với mặt trăng, mọi ánh sáng của nó đều là phản chiếu ánh sáng mặt trời.
749. Đề mục về Hội Thánh cũng hoàn toàn tùy thuộc đề mục trước, về Chúa Thánh Thần. “Bởi vì khi đã cho thấy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch và là Đấng ban phát mọi sự thánh thiện, bây giờ chúng tôi tuyên xưng rằng chính Ngài đã ban cho Hội Thánh sự thánh thiện.”121 Hội Thánh, theo cách diễn tả của các Giáo phụ, là nơi “Thần Khí trổ hoa.”122
750. 811, 169
Tin rằng Hội Thánh có đặc tính là “Thánh thiện” và “Công giáo”, và Hội Thánh có đặc tính “Duy nhất” và “Tông truyền” (như Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli thêm vào), là điều không thể tách biệt khỏi đức tin vào Thiên Chúa là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong Tín biểu của các Tông Đồ, chúng ta tuyên xưng chúng ta tin Hội Thánh (“Tôi tin có Hội Thánh”), chứ không phải “tôi tin kính Hội Thánh”, để chúng ta không lẫn lộn Thiên Chúa với các công trình của Ngài và để chúng ta quy một cách rõ ràng về lòng nhân hậu của Thiên Chúa tất cả mọi hồng ân mà Ngài đã đặt vào Hội Thánh của Ngài.123
Đề mục
Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)
Tiết 2: Hội Thánh – Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)
Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền (811-870)
Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)
Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]
Tiết 6: Đức Ma-ri-a – Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)
Chú thích
120 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến Chế tín lý Lumen Gentium, 1: AAS 57 (1965) 5.
121 Catechismus Romanus, 1, 10, 1: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 104.
122 Thánh Hippôlytô Rô-ma, Traditio apostolica, 35: ed. B. Botte (Munster i.W. 1989) 82.
123 X. Catechismus Romanus, 1, 10, 22: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 118.
Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)
I. Danh xưng và hình ảnh về Hội Thánh (751-757)
751. “Hội Thánh” trong tiếng La-tinh là Ecclesia (tiếng Hy-lạp là Ekklèsia, Ek-kalein, “gọi ra, triệu tập”) có nghĩa là “một cuộc triệu tập.” Danh từ này được dùng để chỉ một cuộc tập họp dân chúng,124 thông thường mang tính chất tôn giáo. Từ này thường được bản Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp sử dụng để chỉ việc tập họp dân Chúa chọn trước mặt Thiên Chúa, nhất là cuộc tập họp ở núi Xi-nai khi Ít-ra-en lãnh nhận Lề luật và được Thiên Chúa thiết lập làm dân thánh của Ngài.125 Khi gọi mình là “Ecclesia” (Hội Thánh), cộng đoàn tiên khởi của những người tin vào Đức Ki-tô tự nhận mình là thừa kế của cuộc tập họp dân Chúa trong Cựu Ước. Trong cộng đoàn mới này, Thiên Chúa “triệu tập” dân của Ngài từ khắp cùng cõi đất. Từ “Kyriakè”, từ gốc của “Church” trong tiếng Anh, và “Kirche” trong tiếng Đức, có nghĩa là “điều thuộc về Chúa.”
752. 1140, 832, 830
Trong ngôn ngữ Ki-tô Giáo, từ Ecclesia (Hội Thánh) dùng để chỉ một cuộc tập họp phụng vụ,126 nhưng cũng để chỉ một cộng đoàn các tín hữu ở một địa phương127 và toàn thể cộng đoàn các tín hữu trên khắp thế giới.128 Ba nghĩa này thật ra không thể tách biệt nhau. “Hội Thánh” là dân được Thiên Chúa quy tụ từ khắp thế gian. Hội Thánh hiện diện trong những cộng đoàn địa phương và trở nên hiện thực trong một cộng đoàn phụng vụ, đặc biệt là cộng đoàn cử hành Thánh Thể. Hội Thánh sống nhờ Lời và Mình Thánh Đức Ki-tô và như vậy, Hội Thánh trở thành Thân Thể Đức Ki-tô.
Bài này đã được xem 5695 lần!