801. 894, 1905
Theo nghĩa này, rõ ràng là sự phân định các đặc sủng luôn luôn là cần thiết. Không có đặc sủng nào được miễn khỏi tương quan với và quy phục các Mục tử của Hội Thánh. Các ngài “có thẩm quyền đặc biệt, không phải để dập tắt Thần Khí, nhưng phải thử thách tất cả và giữ lại điều gì là tốt”,258 để tất cả các đặc sủng, trong sự khác biệt và bổ sung lẫn nhau, cùng cộng tác “vì lợi ích chung” (1 Cr 12,7).259
Tóm lược (802-810)
802. Chúa Giê-su Ki-tô “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành dân riêng của Người” (Tt 2,14).
803. “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa” (1 Pr 2,9).
804. Chúng ta gia nhập dân Thiên Chúa nhờ đức tin và nhờ bí tích Rửa Tội. “Tất cả mọi người đều được kêu gọi gia nhập dân mới của Thiên Chúa”260, để trong Đức Ki-tô “người ta làm thành một gia đình duy nhất và một dân duy nhất của Thiên Chúa.”261
805. Hội Thánh là Thân Thể của Đức Ki-tô. Nhờ Thần Khí và nhờ hành động của Ngài trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, Đức Ki-tô, Đấng đã chết và đã sống lại, làm cho cộng đoàn các tín hữu nên Thân Thể của Người.
806. Trong sự hợp nhất của Thân Thể này, có sự đa dạng của các chi thể và các chức năng. Tất cả các chi thể đều được liên kết với nhau, nhất là với những người đau khổ, những người nghèo và những người bị bách hại.
807. Hội Thánh là một Thân Thể có Đức Ki-tô là Đầu: Hội Thánh sống do Người, trong Người, và cho Người; chính Người sống với Hội Thánh và trong Hội Thánh.
808. Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Ki-tô: Người đã yêu mến Hội Thánh và đã nộp mình vì Hội Thánh. Người đã thanh tẩy Hội Thánh bằng Máu Người. Người làm cho Hội Thánh trở thành Mẹ, sinh ra tất cả các con cái của Thiên Chúa.
809. Hội Thánh là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Thần Khí là như linh hồn của Nhiệm Thể, là nguyên lý của sự sống của Nhiệm Thể, nguyên lý của sự hợp nhất trong khác biệt, nguyên lý của sự phong phú các hồng ân và đặc sủng của Nhiệm Thể.
810. “Như vậy, Hội Thánh phổ quát xuất hiện như một dân được quy tụ trong sự hợp nhất của Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”262
Chú thích
208 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 12-13.
209 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13.
210 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13; x. Ga 13,14.
211 X. Rm 8,2; Gl 5,25.
212 X. Mt 5,13-16.
213 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13.
214 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13.
215 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris Hominis 18-21: AAS 71 (1979) 301-320.
216 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.
217 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16.
218 X. Ga 12,32.
219 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 36: AAS 57 (1965) 41.
220 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.
221 Thánh Lê-ô Cả, Sermo 4, 1: CCL 138,16-17 (PL 54,149).
222 X. Mc 1,l6-20; 3,l3-l9.
223 X. Mt l3,10-l7.
224 X. Lc 10,l7-20.
225 X. Lc 22,28-30.
226 X. Ga l4,l8.
227 X. Mt 28,20.
228 X. Ga 20,22; Cv 2,33.
229 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 9.
230 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 9.
231 X. Rm 6,4-5; 1 Cr 12,13.
232 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 9.
233 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.
234 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.
235 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.
236 X. Cl 2,19.
237 X. Ep 4,11-16.
238 Thánh Augustinô, In Iohannis evangelium tractatus, 21, 8: CCL 36,216-217 (PL 35,1568).
239 Thánh Grêgôriô Cả, Moralia in Iob, Praefatio, 6, 14: CCL 143,19 (PL 75,525).
240 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 48, a. 2, ad 1: Ed. Leon. 11, 464.
241 Thánh Gioana xứ Arc [Jean d’Arc], Dictum: Procès de condamnation, ed. P. Tisset (Paris 1960) 166.
242 X. Ga 3,29.
243 X. Mt 22,1-l4; 25,1-l3.
244 X. 1 Cr 6,l5-l7; 2 Cr 11,2.
245 X. Kh 22,l7; Ep 1,4; 5,27.
246 X. Ep 5,29.
247 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 74, 4: CCL 39,1027 (PL 37,948-949).
248 Thánh Augustinô, Sermo 268, 2: PL 38,1232.
249 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Mystici corporis: DS 3808.
250 X. 1 Cr 3,16-17; Ep 2,21.
251 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 24, 1: SC 211,472-474 (PG 7,966).
252 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Mystici corporis: DS 3808.
253 X. Ep 4,16.
254 X. 1 Cr l2,l3.
255 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.
256 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16; x. Id., Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 3: AAS 58 (1966) 839-840.
257 X. 1 Cr 13.
258 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 17.
259 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 30: AAS 57 (1965) 37; ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Christifideles laici, 24: AAS 81 (1989) 435.
260 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 13: AAS 57 (1965) 17.
261 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 1: AAS 58 (1966) 947.
262 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 4: AAS 57 (1965) 7; x. Thánh Cyprianô, De dominica Oratione, 23: CCL 3A, 105 (PL 4,553).
Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)
811. 750, 832, 865
“Đây là Hội Thánh duy nhất của Đức Ki-tô, mà trong Tín biểu chúng ta tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.”263 Bốn đặc tính này nối kết với nhau một cách không thể tách biệt,264 và nêu rõ những nét căn bản của Hội Thánh và của sứ vụ của Hội Thánh. Hội Thánh không tự mình có các thuộc tính ấy; Đức Ki-tô, nhờ Chúa Thánh Thần, đã làm cho Hội Thánh được duy nhất, thánh thiện công giáo và tông truyền, và cũng chính Người kêu gọi Hội Thánh hãy thực hiện từng điều trong các đặc tính đó.
812. 156, 770
Chỉ đức tin mới có thể nhận biết rằng Hội Thánh có các đặc tính này từ nguồn mạch thần linh. Nhưng những biểu hiện lịch sử của các đặc tính đó cũng là những dấu chỉ nói lên cách rõ ràng trước lý trí nhân loại. Công đồng Va-ti-ca-nô I nhắc lại: “Bởi sự thánh thiện trổi vượt,… sự hợp nhất công giáo và sự vững bền không gì thắng nổi của mình, Hội Thánh tự mình đã là một lý do quan trọng và thường xuyên về tính khả tín, và là một bằng chứng không thể phi bác về sứ vụ thần linh của mình.”265
I. Hội Thánh duy nhất (813-822)
“Mầu nhiệm thánh thiêng của tính duy nhất của Hội Thánh” (813-816)
813. 172, 766, 797
Hội Thánh là duy nhất vì nguồn mạch của mình: “Khuôn mẫu mực tối cao và nguyên lý của mầu nhiệm này, là sự hợp nhất trong Ba Ngôi của Thiên Chúa duy nhất là Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.”267 Hội Thánh là duy nhất vì Đấng Sáng Lập của mình: “Quả thật, chính Chúa Con nhập thể… đã nhờ cây thập giá của mình mà giao hòa mọi người với Thiên Chúa… tái lập sự hợp nhất mọi người trong một dân tộc và một thân thể.”268 Hội Thánh là duy nhất vì “linh hồn” của mình: “Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong các tín hữu, đầy tràn và điều khiển toàn Hội Thánh, làm cho các tín hữu hiệp thông với nhau cách kỳ diệu và kết hợp tất cả trong Đức Ki-tô cách rất mật thiết, cho nên Ngài là nguyên lý của sự hợp nhất của Hội Thánh.”269 Vì vậy, theo bản chất, Hội Thánh là duy nhất:
“Ôi mầu nhiệm lạ lùng thay! Có Chúa Cha duy nhất của vũ trụ, có Ngôi Lời duy nhất của vũ trụ, và Chúa Thánh Thần duy nhất, và chính Ngài ở khắp nơi. Cũng có một người Mẹ Đồng Trinh duy nhất; mà tôi thích gọi người mẹ đó là Hội Thánh.”270
814. 791, 873, 1202, 832
Tuy nhiên, ngay từ khởi đầu, Hội Thánh duy nhất đó cho thấy mình rất đa dạng, điều này vừa xuất phát từ những hồng ân khác nhau của Thiên Chúa đồng thời vừa từ vô số những người lãnh nhận các hồng ân đó. Những đa dạng của các dân tộc và các nền văn hóa được quy tụ thành sự duy nhất của dân Thiên Chúa. Giữa các phần tử của Hội Thánh có sự đa dạng về các hồng ân, các chức năng, các hoàn cảnh và các cách sống; “trong sự hiệp thông của Hội Thánh, có sự hiện diện cách chính đáng của các Giáo Hội địa phương với những truyền thống riêng.”271 Những phong phú lớn lao của sự đa dạng này không nghịch lại tính duy nhất của Hội Thánh. Tuy nhiên, tội lỗi và những hậu quả nặng nề của nó không ngừng đe dọa hồng ân là sự duy nhất. Vì vậy, thánh Tông Đồ đã khuyên phải duy trì “sự hợp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Ep 4,3).
815. 1827, 830, 837, 173
Những mối dây của sự duy nhất này là gì? Trên hết mọi sự, đó là đức mến, là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,l4). Nhưng sự duy nhất của Hội Thánh lữ hành cũng được nâng đỡ bằng những mối dây hiệp thông hữu hình:
– Nhờ việc tuyên xưng một đức tin duy nhất đã tiếp nhận từ các Tông Đồ;
– Nhờ sự cử hành chung việc phụng tự thần linh, nhất là các bí tích;
– Nhờ sự kế nhiệm tông truyền qua bí tích Truyền Chức Thánh, điều này duy trì sự hòa hợp huynh đệ của gia đình Thiên Chúa.272
816. 830
“Đây là Hội Thánh duy nhất của Đức Ki-tô,… mà Đấng Cứu Độ chúng ta, sau khi Người phục sinh, đã trao cho ông Phê-rô chăn dắt, và truyền cho ông và các tông đồ khác phải truyền bá và cai quản… Được thiết lập trên trần gian như một xã hội có phẩm trật, Hội Thánh ấy tồn tại trong (subsistit in) Hội Thánh Công giáo, do Vị kế nhiệm thánh Phê-rô và các Giám mục hiệp thông với ngài điều khiển.”273 Sắc lệnh về Đại Kết (de Oecumenismo) của Công đồng Va-ti-ca-nô II giải thích:
“Quả vậy, nhờ Hội Thánh duy nhất công giáo của Đức Ki-tô, là sự trợ giúp thông thường của ơn cứu độ, người ta có thể đạt được cách viên mãn các phương tiện cứu độ. Thật sự, chúng tôi tin, Chúa đã ủy thác tất cả sản nghiệp Tân Ước cho riêng Tông Đồ Đoàn do thánh Phê-rô lãnh đạo, để tạo thành một Thân Thể duy nhất của Đức Ki-tô nơi trần thế; tất cả những ai thuộc về dân Thiên Chúa một cách nào đó, đều phải được tháp nhập một cách đầy đủ vào Thân Thể này.”274
Những vết thương của sự duy nhất (817-819)
817. 2089
Thật ra, “trong Hội Thánh duy nhất và độc nhất này của Thiên Chúa, ngay từ buổi sơ khai, đã xuất hiện một số rạn nứt mà thánh Tông Đồ đã nặng lời khiển trách là đáng lên án. Trong những thế kỷ sau đó, còn phát sinh những xung đột trầm trọng hơn và những cộng đoàn không nhỏ đã tách biệt khỏi sự hiệp thông đầy đủ với Hội Thánh Công giáo, có khi không phải không do lỗi của những người ở cả hai bên.275 Những sự đoạn tuyệt, làm tổn thương sự duy nhất của Thân Thể Đức Ki-tô (được phân biệt là lạc giáo, bội giáo và ly giáo),276 đã xảy ra do tội lỗi của con người:
“Ở đâu có tội lỗi, ở đó có lộn xộn, ly giáo, lạc giáo, và xung đột; còn ở đâu có nhân đức, ở đó có sự duy nhất, sự kết hợp, nhờ đó tất cả các tín hữu chỉ có một trái tim, và một linh hồn.”277
818. 1271
Ngày nay những người sinh ra trong các cộng đoàn phát sinh từ những cuộc ly khai ấy “và đang sống đức tin vào Đức Ki-tô, không thể bị tố cáo về tội chia rẽ, và Hội Thánh Công giáo quý mến họ với lòng tôn trọng và yêu thương huynh đệ… Được công chính hóa bởi đức tin trong bí tích Rửa Tội, họ được tháp nhập vào Đức Ki-tô, và vì vậy, họ có quyền mang danh Ki-tô hữu, và xứng đáng được con cái của Hội Thánh Công giáo nhìn nhận là anh em trong Chúa.”278
819. Hơn nữa, “nhiều yếu tố của sự thánh hóa và của chân lý”279 hiện hữu bên ngoài những giới hạn hữu hình của Hội Thánh Công giáo: “Lời Chúa bằng văn tự, đời sống trong ân sủng, đức tin, đức cậy, đức mến, và những hồng ân nội tâm khác của Chúa Thánh Thần cùng những yếu tố hữu hình.”280 Thần Khí của Đức Ki-tô dùng những Giáo Hội và những cộng đoàn giáo hội đó như những phương tiện cứu độ, sức mạnh của những phương tiện này xuất phát từ sự sung mãn của ân sủng và của chân lý mà Đức Ki-tô đã giao phó cho Hội Thánh Công giáo. Tất cả những điều thiện hảo đó đều xuất phát từ Đức Ki-tô và dẫn đến Người,281 và tự chúng là lời kêu gọi tiến đến “sự hợp nhất phổ quát.”282
Trên đường tiến đến hợp nhất (820-822)
820. 2748
“Đức Ki-tô từ ban đầu đã rộng ban cho Hội Thánh ơn hợp nhất. Chúng tôi tin rằng sự hợp nhất ấy tồn tại mãi trong Hội Thánh Công giáo và chúng tôi hy vọng sự hợp nhất ngày càng phát triển cho đến ngày tận thế.”283 Đức Ki-tô vẫn luôn luôn ban cho Hội Thánh ơn hợp nhất, nhưng Hội Thánh phải luôn luôn cầu nguyện và hành động để duy trì, tăng cường và hoàn chỉnh sự hợp nhất như Đức Ki-tô muốn. Vì thế, chính Chúa Giê-su cầu nguyện trong giờ khổ nạn và không ngừng cầu xin Chúa Cha cho các môn đệ được hợp nhất: “Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (Ga l7,2l). Lòng ao ước lập lại sự hợp nhất của tất cả các Ki-tô hữu là một hồng ân của Đức Ki-tô và một lời kêu gọi của Chúa Thánh Thần.284
821. 827, 2791
Để đáp lại lời kêu gọi hợp nhất của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh cần:
– canh tân thường xuyên để ngày càng trung thành hơn với ơn gọi của mình; sự canh tân này là động lực của phong trào hợp nhất;285
– hối cải tận đáy lòng “để sống phù hợp hơn với Tin Mừng”,286 vì chính sự bất trung với ân sủng của Đức Ki-tô là nguyên nhân gây chia rẽ giữa các chi thể;
– cầu nguyện chung, vì “sự hối cải tận đáy lòng và sự thánh thiện trong đời sống, cùng với những lời kinh chung và riêng cầu cho sự hợp nhất các Ki-tô hữu, phải được coi như là linh hồn của mọi phong trào đại kết và có thể xứng đáng được mệnh danh là sự đại kết trong tinh thần”;287
– hiểu biết nhau trong tình huynh đệ;288
– đào tạo tinh thần đại kết cho các tín hữu và nhất là cho các linh mục;289
– đối thoại giữa các nhà thần học và gặp gỡ giữa các Ki-tô hữu của các Giáo Hội và các cộng đoàn khác nhau;290
– hợp tác giữa các Ki-tô hữu trong các lãnh vực khác nhau để phục vụ con người.291
822. “Toàn thể Hội Thánh, tín hữu cũng như mục tử, đều có bổn phận quan tâm đến việc tái lập sự hợp nhất.”292 Nhưng cũng cần ý thức rằng “ý nguyện thánh thiện muốn giao hòa toàn thể Ki-tô hữu trong sự hợp nhất của Hội Thánh duy nhất và độc nhất của Đức Ki-tô, vượt quá sức lực và khả năng loài người.” Vì thế, chúng ta đặt hết hy vọng “vào lời Đức Ki-tô cầu nguyện cho Hội Thánh, vào tình thương của Chúa Cha đối với chúng ta và vào quyền năng của Chúa Thánh Thần.”293
II. Hội Thánh thánh thiện (823-829)
823. 459, 796, 946
“Chúng tôi tin Hội Thánh… mãi mãi thánh thiện. Thật vậy, Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần được ca tụng là ‘Đấng Thánh duy nhất’, đã yêu dấu Hội Thánh như Hiền Thê của mình, và đã tự hiến vì Hội Thánh, để thánh hóa Hội Thánh, và kết hợp Hội Thánh với mình như Thân Thể của mình, và ban cho dư đầy hồng ân của Chúa Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa.”294 Vì vậy, Hội Thánh là “dân thánh của Thiên Chúa”295 và các phần tử của Hội Thánh được gọi là “các Thánh.”296
824. 816
Hội Thánh, nhờ kết hợp với Đức Ki-tô, được chính Người thánh hóa; nhờ Người và trong Người, Hội Thánh cũng có khả năng thánh hóa: “Tất cả các công việc của Hội Thánh đều hướng về mục đích là thánh hóa con người trong Đức Ki-tô và tôn vinh Thiên Chúa.”297 Hội Thánh được giao cho “đầy đủ các phương tiện cứu độ.”298 Trong Hội Thánh, “chúng ta đạt đến sự thánh thiện nhờ ân sủng của Thiên Chúa.”299
825. 670, 2013
“Hội Thánh nơi trần thế được ghi dấu đặc biệt bằng sự thánh thiện đích thực, tuy chưa trọn hảo.”300 Các chi thể của Hội Thánh còn phải đạt tới sự thánh thiện trọn hảo: “Được ban cho những phương tiện cứu độ dồi dào và cao cả như thế, tất cả các Ki-tô hữu, dù trong hoàn cảnh và bậc sống nào, mỗi người trong con đường của mình, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự thánh thiện trọn hảo như Chúa Cha là Đấng trọn hảo.”301
826. 1827, 2658, 864
Đức mến là linh hồn của sự thánh thiện mà mọi người được kêu gọi đạt tới: “Đức mến hướng dẫn, hình thành và đưa tới mục đích, tất cả các phương tiện thánh hóa”:302 “Tôi hiểu rằng nếu Hội Thánh là một thân thể gồm những bộ phận khác nhau, thì không thể thiếu bộ phận cần thiết nhất và cao quý nhất; tôi hiểu rằng Hội Thánh có một trái tim và trái tim ấy bừng cháy Tình Yêu. Tôi hiểu rằng chỉ có Tình Yêu khiến các chi thể của Hội Thánh hoạt động, nếu Tình Yêu bị tàn lụi, thì các Tông Đồ sẽ không loan báo Tin Mừng nữa, các vị Tử Đạo sẽ từ chối đổ máu mình ra… Tôi hiểu rằng Tình Yêu bao gồm nơi mình tất cả các Ơn Gọi, Tình Yêu là mọi sự, và Tình Yêu bao trùm khắp không gian và thời gian… tắt một lời, Tình Yêu thì vĩnh cửu.”303
827. 1425-1429, 821
“Trong khi Đức Ki-tô thật sự là Đấng ‘thánh thiện, vô tội, tinh tuyền’, không hề biết đến tội, nhưng đến để đền các tội riêng của dân, thì, vì mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi, vừa thánh thiện vừa phải luôn được thanh tẩy, Hội Thánh luôn tiếp tục việc sám hối và canh tân.”304 Tất cả các chi thể của Hội Thánh, kể cả các thừa tác viên, đều phải nhận mình là kẻ tội lỗi.305 Trong tất cả mọi người, cỏ lùng của tội lỗi còn lẫn lộn với lúa tốt của Tin Mừng cho đến tận thế.306 Vì vậy, Hội Thánh quy tụ những người tội lỗi đã được lãnh nhận ơn cứu độ của Đức Ki-tô, nhưng còn đang trên đường thánh hóa:
Vì vậy, Hội Thánh “thánh thiện, dù mang trong lòng mình những người tội lỗi; bởi vì Hội Thánh không có sự sống nào khác ngoài sự sống của ân sủng; quả thật, nếu các chi thể của Hội Thánh được nuôi dưỡng bằng sự sống này, thì họ được thánh hóa, nếu họ tách mình khỏi sự sống này, thì họ rơi vào tội lỗi và các xấu xa của tâm hồn, những điều đó ngăn cản không cho sự thánh thiện rạng ngời của Hội Thánh được lan toả. Vì vậy, Hội Thánh chịu đau khổ và thống hối vì những tội lỗi đó, tuy có quyền giải thoát các con cái mình khỏi tội lỗi nhờ Máu Đức Ki-tô và hồng ân của Chúa Thánh Thần.”307
828. 1173, 2045
Khi phong thánh cho một số tín hữu, nghĩa là khi long trọng tuyên bố những tín hữu này đã thực hành các nhân đức một cách anh dũng và đã sống trung thành với ân sủng của Thiên Chúa, Hội Thánh nhìn nhận quyền năng của Thần Khí thánh thiện đang ngự nơi mình và Hội Thánh nâng đỡ niềm hy vọng của các tín hữu khi đưa các thánh làm gương mẫu và làm người chuyển cầu cho họ.308 “Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất suốt dòng lịch sử Hội Thánh, các Thánh nam nữ luôn là nguồn mạch và là khởi điểm của sự canh tân.”309 “Quả thật, sự thánh thiện của Hội Thánh là nguồn mạch bí ẩn và là thước đo không thể sai lầm của hoạt động tông đồ và nhiệt tình truyền giáo của Hội Thánh.”310
829. 1172, 972
“Trong khi Hội Thánh đã đạt tới sự trọn hảo không tì ố, không vết nhăn, nơi Đức Trinh Nữ diễm phúc, thì các Ki-tô hữu vẫn còn phải cố gắng, để chiến thắng tội lỗi mà tiến tới trong sự thánh thiện; vì vậy, họ ngước mắt nhìn lên Đức Ma-ri-a”:311 nơi Đức Mẹ, Hội Thánh đã hoàn toàn thánh thiện.
III. Hội Thánh Công giáo (830-856)
“Công giáo” là gì? (830-831)
830. 795, 815-816
Thuật ngữ “công giáo” (catholica) có nghĩa là “phổ quát”, hoặc “theo tính toàn bộ” hoặc “theo sự toàn vẹn.” Hội Thánh là công giáo theo cả hai nghĩa:
Bài này đã được xem 5699 lần!