GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Hội Thánh là công giáo bởi vì trong Hội Thánh có Đức Ki-tô hiện diện. “Ở đâu có Đức Ki-tô Giê-su, ở đó có Hội Thánh Công giáo.”312 Nơi Hội Thánh, tồn tại sự sung mãn của Thân Thể Đức Ki-tô, được kết hợp với Đầu của mình,313 điều đó có nghĩa là Hội Thánh đã nhận được từ Đức Ki-tô “đầy đủ các phương tiện cứu độ”314 theo như Người muốn: lời tuyên xưng đức tin chính xác và trọn vẹn, đời sống bí tích toàn vẹn và thừa tác vụ thánh chức trong sự kế nhiệm tông truyền. Theo ý nghĩa căn bản này, Hội Thánh đã là Công giáo từ ngày lễ Ngũ Tuần315 và mãi mãi sẽ là Công giáo cho đến ngày Chúa quang lâm.

831. 849, 360, 518

Hội Thánh là Công giáo bởi vì Hội Thánh được Đức Ki-tô sai đến với toàn thể nhân loại:316

“Mọi người được kêu gọi vào dân mới của Thiên Chúa. Vì thế, dân này, vẫn là một dân duy nhất, phải được mở rộng khắp trần gian và qua mọi thế hệ, để kế hoạch của thánh ý Thiên Chúa được hoàn thành: từ nguyên thủy Ngài đã tạo dựng một bản tính nhân loại duy nhất, và đã quyết định quy tụ nên một các con cái đã tản mát của Ngài… Đặc tính phổ quát này, làm vinh dự cho dân Thiên Chúa, là một hồng ân của chính Chúa, nhờ đó Hội Thánh Công giáo, một cách hữu hiệu và liên lỉ, hướng tới việc quy tụ toàn thể nhân loại cùng mọi điều thiện hảo của họ, dưới quyền Đức Ki-tô là Đầu, trong sự hợp nhất của Thần Khí của Người.”317

Mỗi Giáo Hội địa phương cũng là “Công giáo” (832-835)

832. 814, 811

“Hội Thánh Đức Ki-tô thật sự hiện diện trong mọi cộng đoàn hợp pháp các tín hữu ở các địa phương, các cộng đoàn này gắn bó với các Mục tử của mình và trong Tân Ước được gọi là các Hội Thánh… Trong các cộng đoàn đó, các tín hữu được quy tụ nhờ việc rao giảng Tin Mừng Đức Ki-tô, và mầu nhiệm Bữa Tiệc của Chúa được cử hành… Trong các cộng đoàn đó, tuy thường là nhỏ bé và nghèo nàn hay sống tản mát, vẫn có Đức Ki-tô hiện diện, nhờ sức mạnh của Người mà Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền được kết hợp.”318

833. 886

Danh xưng “Giáo Hội địa phương”, trước hết là một giáo phận, được dùng để chỉ một cộng đoàn các tín hữu sống hiệp thông trong đức tin và các bí tích với Giám mục của họ là người đã thụ phong trong sự kế nhiệm tông truyền.319 Các Giáo Hội địa phương này được thành lập “theo hình ảnh Hội Thánh phổ quát”, chính trong và từ các Giáo Hội ấy mà một Hội Thánh Công giáo duy nhất hiện hữu.320

834. 882, 1369

Các Giáo Hội địa phương có đặc tính công giáo cách đầy đủ nhờ hiệp thông với một trong các Giáo Hội đó, tức là với Giáo Hội Rô-ma, là Giáo Hội “chủ trì trong đức mến.”321 “Quả vậy, toàn thể Hội Thánh, nghĩa là các tín hữu ở khắp mọi nơi, cần phải hòa hợp với Giáo Hội Rô-ma vì sự ưu việt cao trọng hơn của nó.”322 “Quả vậy, từ buổi đầu, khi Ngôi Lời Thiên Chúa xuống mang lấy xác phàm nơi chúng ta, tất cả các Giáo Hội của các Ki-tô hữu ở khắp mọi nơi đã coi và vẫn coi Giáo Hội cao quý ở Rô-ma như căn bản và nền tảng vững chắc duy nhất: vì theo chính lời hứa của Đấng Cứu Độ, các cửa địa ngục không bao giờ thắng được Giáo Hội ấy.”323

835. 1202

“Vậy chúng ta phải cẩn thận, đừng nghĩ rằng Hội Thánh phổ quát như là một tổng hợp, hay có thể nói, một hiệp hội liên minh… các Giáo Hội địa phương… Chính Hội Thánh, do ơn gọi và sứ vụ phổ quát, khi bén rễ vào những hoàn cảnh khác nhau, liên quan đến trật tự dân sự, xã hội và nhân loại, thì đã mặc lấy những bộ mặt bên ngoài và những đặc điểm khác nhau trong bất cứ miền nào của trái đất.”324 Sự đa dạng phong phú về các kỷ luật giáo hội, các nghi thức phụng vụ, các di sản riêng về thần học và tu đức của các Giáo hội địa phương, “khi kết hợp nên một, cho thấy một cách sáng chói tính công giáo của Hội Thánh không bị phân chia.”325

Ai thuộc về Hội Thánh Công giáo? (836-838)

836. 831

“Mọi người đều được kêu gọi tới sự hợp nhất mang tính công giáo của dân Thiên Chúa…, và thuộc về hoặc quy hướng về sự hợp nhất đó bằng những cách khác nhau: hoặc là các tín hữu Công giáo, hoặc là những người khác tin vào Đức Ki-tô, hoặc cuối cùng là tất cả mọi người một cách phổ quát, được kêu gọi hưởng ơn cứu độ nhờ ân sủng của Thiên Chúa.”326

837. 771, 815, 882

“Được tháp nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Hội Thánh, là những ai có Thần Khí của Đức Ki-tô, chấp nhận cơ cấu trọn vẹn của Hội Thánh và tất cả các phương tiện cứu độ đã được thiết lập trong Hội Thánh, và được kết hợp trong cơ cấu hữu hình của Hội Thánh với Đức Ki-tô, Đấng hướng dẫn Hội Thánh nhờ Đức Giáo Hoàng và các Giám mục, bằng những mối dây là việc tuyên xưng đức tin, là các bí tích, là sự cai quản và hiệp thông trong Hội Thánh. Tuy nhiên, một người dù đã được tháp nhập vào Hội Thánh, nhưng nếu không kiên trì trong đức mến, thì người đó vẫn không được cứu độ, vì quả thật, họ ở trong lòng Hội Thánh “bằng thân xác”, chứ không phải “bằng trái tim.”327

838. 818, 1271, 1399

“Với những người đã được Rửa Tội, mang danh xưng là Ki-tô hữu, nhưng không tuyên xưng đức tin toàn vẹn hoặc không duy trì sự hợp nhất hiệp thông dưới quyền Đấng kế nhiệm thánh Phê-rô, Hội Thánh biết mình vẫn liên kết với họ vì nhiều lý do.”328 “Quả vậy, những ai tin vào Đức Ki-tô và đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội theo đúng nghi thức, thì cũng hiệp thông một cách nào đó với Hội Thánh Công giáo, mặc dầu là sự hiệp thông không trọn vẹn.”329 Với các Giáo Hội Chính thống, sự hiệp thông này sâu đậm đến mức “chỉ còn thiếu một chút là đạt tới sự sung mãn phải có, cho phép cử hành chung bí tích Thánh Thể của Chúa.”330

Hội Thánh và những người ngoài Ki-tô Giáo (839-845)

839. 856, 63, 147

“Những ai chưa đón nhận Tin Mừng, cũng quy hướng về dân Thiên Chúa bằng những hình thức khác nhau.”331

Tương quan của Hội Thánh với dân Do-thái. Hội Thánh, dân Thiên Chúa trong Tân Ước, khi nhìn kỹ vào mầu nhiệm của chính mình, khám phá ra mối liên hệ giữa mình với dân Do-thái,332 là dân “được Chúa là Thiên Chúa chúng ta ngỏ lời trước.”333 Khác với các tôn giáo khác ngoài Ki-tô Giáo, đức tin Do-thái đã là lời đáp lại đối với mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu Ước. Chính dân Do-thái này “đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Ngài cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, Lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ; và… chính Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ” (Rm 9,4-5), “quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Ngài không hề đổi ý” (Rm 11,29).

840. 674, 597

Đàng khác, khi nhìn về tương lai, dân Thiên Chúa của Cựu Ước và dân mới của Thiên Chúa đều hướng tới những mục tiêu tương tự: đó là sự mong chờ Đấng Mê-si-a ngự đến (hoặc trở lại). Nhưng một bên, là mong chờ sự trở lại của Đấng Mê-si-a, đã chết và đã sống lại, được nhận biết là Chúa và là Con Thiên Chúa; còn bên kia, là mong chờ, vào ngày tận thế, việc Ngự đến của Đấng Mê-si-a, mà dung mạo của Người còn ẩn khuất, sự mong chờ này kèm theo bi kịch là không biết hay không nhận Đức Ki-tô Giê-su.

841. Tương quan của Hội Thánh với người Hồi giáo. “Ý định cứu độ còn bao gồm những ai nhận biết Đấng Tạo Hóa, trong số đó trước tiên phải kể đến những người Hồi giáo, những người tự nhận mình giữ đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham, cùng với chúng ta tôn thờ Thiên Chúa duy nhất, nhân từ, Đấng sẽ phán xét con người trong ngày sau hết.”334

842. 360

Mối liên hệ của Hội Thánh với các tôn giáo ngoài Ki-tô Giáo trước hết xuất phát từ chỗ tất cả nhân loại cùng có chung một nguồn gốc và một mục đích:

“Thật vậy, mọi dân tộc đều họp thành một cộng đoàn, có chung một nguồn gốc, vì Thiên Chúa đã cho toàn thể nhân loại sinh sống trên khắp mặt địa cầu, họ cũng có cùng một mục đích tối hậu, là Thiên Chúa, Đấng trải rộng sự quan phòng, chứng tích lòng nhân hậu và kế hoạch cứu độ của Ngài đến tất cả mọi người, cho đến khi những người được chọn được hợp nhất trong Thành thánh.”335

843. 28, 856

Hội Thánh nhìn nhận trong các tôn giáo khác một sự tìm kiếm “trong bóng tối và trong hình ảnh” vị Thiên Chúa không được biết đến, nhưng gần gũi, bởi vì chính Ngài ban cho mọi người sự sống, hơi thở và mọi sự, và bởi vì chính Ngài muốn tất cả mọi người đều được cứu độ. Như vậy, Hội Thánh xem bất cứ điều gì tốt đẹp và chân thật có thể gặp được trong các tôn giáo, như một sự chuẩn bị cho việc đón nhận Tin Mừng và điều đó “được ban bởi Đấng soi sáng mọi người, để cuối cùng họ được sống.”336

844. 29

Tuy nhiên, trong cách thực hành tín ngưỡng của mình, người ta cũng biểu lộ những giới hạn và những sai lầm làm méo mó hình ảnh Thiên Chúa:

“Bị ma quỷ gạt gẫm, người ta rất thường sai lạc trong các suy nghĩ của mình, và đánh đổi chân lý của Thiên Chúa lấy điều giả dối, phục vụ loài thụ tạo hơn là Đấng Tạo Hóa, hoặc họ sống và chết như không có Thiên Chúa trên trần gian này, nên bị rơi vào tuyệt vọng tột cùng.”337

845. 30, 953, 1219

Để quy tụ lại tất cả con cái của Ngài đã bị tội lỗi làm tản mát và lạc lối, Chúa Cha đã muốn tập họp toàn thể nhân loại vào Hội Thánh của Con Ngài. Hội Thánh là nơi trong đó nhân loại phải tìm lại được sự hợp nhất của mình và ơn cứu độ của mình. Hội Thánh là “trần gian đã được giao hoà.”338 Hội Thánh là con tàu “được căng buồm bằng thánh giá của Chúa, theo luồng gió của Chúa Thánh Thần, an toàn vượt biển trần gian này”,339 theo một hình ảnh khác quen thuộc với các Giáo phụ, Hội Thánh được hình dung bằng con tàu của ông Nô-ê, con tàu duy nhất cứu khỏi cơn lụt đại hồng thủy.340

“Ngoài Hội Thánh không có ơn cứu độ” (846-848)

846. 161, 1257

Phải hiểu thế nào về lời khẳng định thường được các Giáo phụ nhắc lại này? Theo nghĩa tích cực, khẳng định này có nghĩa là toàn bộ ơn cứu độ xuất phát từ Đức Ki-tô là Đầu nhờ Hội Thánh là Thân Thể của Người:

“Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền, Công đồng dạy rằng: Hội Thánh lữ hành này là cần thiết để được cứu độ. Quả vậy, chỉ một mình Đức Ki-tô là trung gian và là con đường của ơn cứu độ, Người hiện diện giữa chúng ta trong Thân Thể Người là Hội Thánh; qua việc minh nhiên công bố sự cần thiết của đức tin và Phép Rửa, chính Người đã đồng thời xác nhận sự cần thiết của Hội Thánh, mà người ta bước vào đó nhờ Phép Rửa như qua một cái cửa. Vì vậy, những ai không phải là không biết rằng Hội Thánh Công giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Giê-su Ki-tô như phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không muốn gia nhập, hoặc không muốn kiên trì sống trong Hội Thánh này, thì không thể được cứu độ.”341

847. Lời khẳng định này không nhắm tới những người không biết Đức Ki-tô và Hội Thánh của Người mà không do lỗi của họ:

“Quả vậy, những người không biết đến Tin Mừng của Đức Ki-tô và Hội Thánh Người mà không do lỗi của họ, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ân sủng, cố gắng chu toàn thánh ý của Ngài bằng các công việc theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể đạt được ơn cứu độ muôn đời.”342

848. 1260

“Mặc dầu Thiên Chúa có thể dùng những đường lối chỉ mình Ngài biết để đưa những người không biết Tin Mừng, mà không do lỗi của họ, đến với đức tin, mà không có đức tin thì không thể làm vui lòng Ngài,343 Hội Thánh vẫn có bổn phận, và đồng thời là một quyền thánh thiêng, phải rao giảng Tin Mừng”344 cho tất cả mọi người.

Truyền giáo – một đòi hỏi bắt nguồn từ tính công giáo của Hội Thánh (849-856)

849. 738, 767

Lệnh truyền giáo. “Được Thiên Chúa sai đến với muôn dân để nên ‘bí tích cứu độ phổ quát’, do những đòi hỏi sâu sắc của tính công giáo, vâng theo lệnh truyền của Đấng Sáng Lập của mình, Hội Thánh cố gắng loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người.”345 “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,l9-20).

850. 257, 730

Nguồn gốc và mục đích của việc truyền giáo. Lệnh truyền giáo của Chúa bắt nguồn từ tình yêu vĩnh cửu của Ba Ngôi Chí Thánh: “Tự bản chất, Hội Thánh lữ hành phải truyền giáo, vì chính Hội Thánh bắt nguồn từ sứ vụ của Chúa Con và sứ vụ của Chúa Thánh Thần, theo ý định của Thiên Chúa Cha.”346 Mục đích tối hậu của việc truyền giáo là làm cho loài người được tham dự vào sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Thần Khí tình yêu của chính các Ngài.347

851. 221, 429, 74, 217, 2104, 890

Động lực của việc truyền giáo. Hội Thánh luôn nhận lấy bổn phận và sức mạnh thúc đẩy việc truyền giáo của mình từ chính tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người: Quả vậy, “tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi…” (2 Cr 5,l4).348 Thật vậy, “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ nhờ nhận biết chân lý. Ơn cứu độ được gặp thấy trong chân lý. Những ai vâng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần chân lý, thì đã ở trên đường cứu độ; nhưng chân lý này đã được ủy thác cho Hội Thánh, nên Hội Thánh phải đáp ứng khát vọng của những người đó là mang chân lý đến cho họ. Bởi vì Hội Thánh tin vào kế hoạch phổ quát của ơn cứu độ, nên Hội Thánh phải truyền giáo.

852. 2044, 2473

Những nẻo đường truyền giáo. “Chúa Thánh Thần là Đấng chủ xướng toàn bộ việc truyền giáo của Hội Thánh.”349 Chính Ngài dẫn dắt Hội Thánh trên các nẻo đường truyền giáo. “Hội Thánh tiếp tục và triển khai qua dòng lịch sử sứ vụ của chính Đức Ki-tô, Đấng đã được sai đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo; được Thần Khí Đức Ki-tô thúc đẩy, Hội Thánh phải tiến bước trên chính con đường Đức Ki-tô đã đi, là con đường khó nghèo, vâng phục, phục vụ và tự hiến cho đến chết, từ đó Người đã chiến thắng nhờ sự sống lại của Người.”350 Theo cách đó, “máu là hạt giống trổ sinh các Ki-tô hữu.”351

853. 1428, 2443

Nhưng trên đường lữ hành, Hội Thánh cũng cảm nghiệm “khoảng cách giữa sứ điệp mà Hội Thánh phải rao giảng và sự yếu hèn nhân loại của những người được ủy thác Tin Mừng.”352 Chỉ bằng con đường “sám hối và canh tân”353 và “qua cửa hẹp của Thập Giá”,354 Dân Thiên Chúa mới có thể mở rộng Nước Đức Ki-tô.355 “Cũng như Đức Ki-tô đã hoàn thành công trình cứu chuộc trong nghèo khó và bị bách hại, Hội Thánh cũng được kêu gọi tiến bước trên chính con đường đó, để truyền thông cho người ta những hoa trái của ơn cứu độ.”356

854. 2105, 1204

Do chính sứ vụ của mình, “Hội Thánh đồng hành với toàn thể nhân loại và cảm nghiệm cùng một số phận trần thế với trần gian, và Hội Thánh hiện hữu như men, như linh hồn của xã hội nhân loại phải được canh tân trong Đức Ki-tô và phải được biến đổi thành gia đình của Thiên Chúa.”357 Vì thế, nỗ lực truyền giáo đòi hỏi sự kiên nhẫn. Công việc truyền giáo bắt đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc và các nhóm người chưa tin vào Đức Ki-tô;358 tiếp đến là thiết lập những cộng đoàn Ki-tô hữu, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trên trần gian,359 và thành lập những Giáo Hội địa phương;360 tiến trình hội nhập văn hóa được thúc đẩy, để Tin Mừng nhập thể vào các nền văn hóa của các dân tộc;361 tiến trình đó sẽ không thiếu lúc gặp sự chống đối. “Đối với người ta, các tập thể và các dân tộc, Hội Thánh chỉ tiếp xúc và thâm nhập dần dần, và như vậy, đón nhận họ vào sự sung mãn của tính công giáo.”362

855. 821

Công việc truyền giáo của Hội Thánh đòi hỏi nỗ lực để hợp nhất các Ki-tô hữu.363 “Sự chia rẽ giữa các Ki-tô hữu ngăn trở Hội Thánh thực hiện đầy đủ tính công giáo đặc thù của mình nơi những con cái đó, những người đã liên kết với Hội Thánh bằng Phép Rửa, nhưng còn bị tách biệt chưa hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh. Hơn nữa, chính Hội Thánh cũng khó diễn tả sự sung mãn của tính công giáo về mọi phương diện trong đời sống thực tế.”364

856. 839, 843

Nhiệm vụ truyền giáo bao hàm sự đối thoại đầy tôn trọng đối với những ai chưa đón nhận Tin Mừng.365 Các tín hữu có thể nhận được điều bổ ích cho chính mình từ cuộc đối thoại này, nhờ học biết thêm rằng “bất cứ điều gì thuộc về chân lý và ân sủng đã có nơi các dân tộc, đều được nhận ra như một sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa.”366 Chính các tín hữu loan báo Tin Mừng cho những người không biết, để củng cố, bổ túc, và nâng cao chân lý và sự thiện mà Thiên Chúa đã tuôn đổ cho người ta, cho các dân tộc, và để thanh luyện họ khỏi sự sai lầm và sự dữ “để Thiên Chúa được vinh danh, ma quỷ phải hổ thẹn, và con người được hạnh phúc.”367

Bài này đã được xem 5701 lần!

Pages ( 32 of 96 ): <1 ... 3031 32 3334 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]