IV. Hội Thánh tông truyền (857-865)
857. 75, 171, 880, 1575
Hội Thánh có đặc tính tông truyền vì được đặt nền trên các Tông Đồ, và điều này được hiểu theo ba nghĩa:
– Hội Thánh đã và đang được xây dựng trên “nền móng là các Tông Đồ” (Ep 2,20),368 là những chứng nhân đã được chính Đức Ki-tô tuyển chọn và sai đi;369
– Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ngự trong Hội Thánh, Hội Thánh gìn giữ và lưu truyền giáo huấn,370 kho tàng quý báu, những lời lành thánh nghe được từ các Tông Đồ;371
– Hội Thánh tiếp tục được giảng dạy, thánh hóa và hướng dẫn bởi các Tông Đồ cho đến khi Đức Ki-tô trở lại nhờ những vị kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục tử: Giám mục đoàn, “với sự trợ giúp của các linh mục, hợp nhất với Đấng kế nhiệm thánh Phê-rô là mục tử tối cao của Hội Thánh.”372
“Lạy Chúa là Mục Tử hằng hữu,
Chúa không bỏ rơi đoàn chiên Chúa,
nhưng nhờ các Thánh Tông Đồ,
Chúa luôn che chở giữ gìn để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử nhân danh Con Chúa…”373
Sứ vụ của các Tông Đồ (858-860)
858. 551, 425, 1086
Chúa Giê-su là Đấng được Chúa Cha sai đi. Ngay từ đầu sứ vụ của Người, Người “gọi đến với mình những kẻ Người muốn… Người lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người, và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,13-14). Từ đó, họ là “những người được sai đi” (thuật ngữ Hy Lạp Apostoloi nói lên ý nghĩa đó). Qua họ, Đức Ki-tô tiếp tục sứ vụ riêng của Người: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,2l).374 Như vậy, thừa tác vụ của họ là sự tiếp tục sứ vụ của Đức Ki-tô. Chính Người nói với nhóm Mười Hai: “Ai đón tiếp anh em, là đón tiếp Thầy” (Mt 10,40).375
859. 876
Chúa Giê-su kết hợp họ vào sứ vụ mà Người lãnh nhận từ Chúa Cha: cũng như “Chúa Con không thể tự mình làm gì” (Ga 5,19.30) nhưng lãnh nhận tất cả từ Chúa Cha, Đấng đã sai Người, thì những người Chúa Giê-su sai đi cũng vậy, họ không thể làm được gì nếu không có Người,376 từ nơi Người, họ đã lãnh nhận lệnh truyền sai đi và quyền năng để hoàn thành điều đó. Vì thế, các Tông Đồ của Đức Ki-tô biết rằng họ đã được Thiên Chúa làm cho trở thành “những thừa tác viên của Tân Ước ”(2 Cr 3,6), “những thừa tác viên của Thiên Chúa” (2 Cr 6,4), “những sứ giả thay mặt Đức Ki-tô” (2 Cr 5,20), “những đầy tớ của Đức Ki-tô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1 Cr 4,l).
860. 642, 765, 1087
Trong nhiệm vụ của các Tông Đồ, có một khía cạnh không thể được lưu truyền: đó là các ngài là những chứng nhân đặc tuyển về sự sống lại của Chúa và là những nền móng của Hội Thánh. Nhưng cũng có một khía cạnh trường tồn trong nhiệm vụ của các ngài: Đức Ki-tô đã hứa với các ngài rằng Người sẽ ở với các ngài cho đến tận thế.377 “Sứ vụ thần linh, mà Đức Ki-tô ủy thác cho các Tông Đồ, sẽ tồn tại cho đến tận thế, bởi vì Tin Mừng, được truyền lại bởi các ngài, phải luôn luôn là nguyên lý của toàn bộ sự sống đối với Hội Thánh. Chính vì vậy, các Tông Đồ… đã cẩn thận thiết đặt những người kế nhiệm.”378
Các Giám mục – những vị kế nhiệm các Tông Đồ (861-862)
861. 77, 1087
“Để sứ vụ đã được ủy thác cho các ngài vẫn được tiếp tục sau khi các ngài qua đời, các Tông Đồ đã trao cho các cộng sự viên trực tiếp của mình, như trao một di chúc, nhiệm vụ phải hoàn thành và củng cố công trình các ngài đã khởi sự, khuyên nhủ họ lưu ý đến hết đoàn chiên mà trong đó Chúa Thánh Thần đã đặt họ chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa. Các ngài đã thiết đặt những người như vậy và quy định rằng sau đó, khi những người này chết, thì những người đàn ông khác đã được thử thách sẽ lãnh nhận thừa tác vụ của họ.”379
862. 880, 1556
“Cũng như nhiệm vụ được Chúa ủy thác cho một mình ông Phê-rô, vị thứ nhất của các Tông Đồ, phải được lưu truyền cho các vị kế nhiệm ông, là một nhiệm vụ trường tồn, thì cũng vậy, nhiệm vụ của các Tông Đồ là phải chăn dắt Hội Thánh, và được thực thi liên tục bởi việc truyền chức thánh cho các Giám mục, nhiệm vụ đó cũng trường tồn.” Vì vậy, Hội Thánh dạy rằng: “Chính Chúa đã thiết đặt các Giám mục kế nhiệm các Tông Đồ làm các mục tử của Hội Thánh, nên ai nghe các ngài là nghe Đức Ki-tô, còn ai khinh miệt các ngài là khinh miệt Đức Ki-tô và Đấng đã sai Đức Ki-tô đến.”380
Việc tông đồ (863-865)
863. 900, 2472
Toàn thể Hội Thánh có đặc tính tông truyền vì, nhờ các vị kế nhiệm thánh Phê-rô và các Tông Đồ, Hội Thánh vẫn giữ nguyên nguồn gốc của mình trong sự hiệp thông đức tin và sự sống. Hội Thánh còn có đặc tính tông truyền vì “được sai đi” khắp trần gian; tất cả các chi thể của Hội Thánh, tuy bằng những cách khác nhau, đều tham dự vào tính chất “được sai đi” này. “Quả vậy, ơn gọi Ki-tô hữu, tự bản chất, cũng là ơn gọi làm việc tông đồ.” Được gọi là “Việc tông đồ”, là “mọi hoạt động của Nhiệm Thể” nhằm “làm cho Nước Đức Ki-tô ở mọi nơi trên trần thế” được rộng mở.381
864. 828, 824, 1324
“Vì Đức Ki-tô, Đấng được Chúa Cha sai đến, là nguồn mạch và là nguồn gốc của mọi việc tông đồ trong Hội Thánh, nên việc tông đồ”, của các thừa tác viên có chức thánh cũng như của các giáo dân, “có sinh hoa kết quả hay không đều tùy thuộc vào sự kết hợp sống động của chính họ với Đức Ki-tô.”382 Việc tông đồ, tùy theo các ơn gọi, các nhu cầu thời đại, các hồng ân khác nhau của Chúa Thánh Thần, mang những hình thức hết sức đa dạng. Nhưng đức mến, được múc nguồn đặc biệt từ bí tích Thánh Thể, luôn “như là linh hồn của mọi việc tông đồ.”383
865. 811, 541
Hội Thánh là Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền trong căn tính sâu xa và tối hậu của mình, bởi vì nơi Hội Thánh, “Nước Trời”, “Nước Thiên Chúa”384 đã hiện hữu và sẽ được hoàn thành trong ngày tận thế, Nước đó đã đến nơi Ngôi Vị của Đức Ki-tô và trong trái tim của những ai được tháp nhập vào Người, đang lớn lên cách âm thầm cho đến khi nước đó tỏ hiện trọn vẹn lúc cánh chung. Lúc đó, tất caû mọi người đã được Người cứu chuộc, đã được Người “thánh hóa và làm cho nên tinh tuyền trước tôn nhan Thiên Chúa trong tình yêu”,385 sẽ được quy tụ thành dân duy nhất của Thiên Chúa, “Hiền Thê của Con Chiên”,386 “Thành Thánh tự trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi sự huy hoàng của Thiên Chúa”;387 và “tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21,14).
Tóm lược (866-870)
866. Hội Thánh duy nhất: Hội Thánh chỉ có một Chúa, tuyên xưng một đức tin, sinh bởi một Phép Rửa, họp thành một Thân Thể, được làm cho sống bởi một Thần Khí, nhắm đến một niềm hy vọng388, khi niềm hy vọng này hoàn thành, mọi chia rẽ sẽ được vượt thắng.
867. Hội Thánh thánh thiện: Thiên Chúa chí thánh là Đấng sáng lập Hội Thánh; Đức Ki-tô, Phu Quân của Hội Thánh đã tự hiến để thánh hóa Hội Thánh; Thần Khí thánh thiện làm cho Hội Thánh được sống. Dù bao gồm những người tội lỗi, Hội Thánh vẫn là “cộng đoàn không tội lỗi được tạo thành từ những người tội lỗi.” Nơi các Thánh, Hội Thánh chiếu tỏa sự thánh thiện của mình. Nơi Đức Ma-ri-a, Hội Thánh đã thánh thiện trọn vẹn.
868. Hội Thánh Công giáo: Hội Thánh loan báo toàn bộ đức tin, mang trong mình và ban phát đầy đủ các phương tiện cứu độ; Hội Thánh được sai đến với tất cả các dân tộc; Hội Thánh ngỏ lời với tất cả mọi người; Hội Thánh bao trùm mọi thời đại; Hội Thánh “tự bản chất, có đặc tính là truyền giáo.”389
869. Hội Thánh tông truyền: Hội Thánh được xây dựng trên những nền móng vững chắc là mười hai Tông Đồ của Con Chiên390 ; Hội Thánh không thể bị hủy diệt391 ; Hội Thánh được gìn giữ một cách không thể sai lầm trong chân lý; Đức Ki-tô điều khiển Hội Thánh qua thánh Phê-rô và các Tông Đồ khác, các ngài đang hiện diện nơi những người kế nhiệm các ngài, là Đức Giáo Hoàng và Giám mục đoàn.
870. “Hội Thánh duy nhất của Đức Ki-tô mà trong Tín biểu chúng ta tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền,… Hội Thánh này tồn tại trong Hội Thánh Công giáo, do vị kế nhiệm thánh Phê-rô và các Giám mục hiệp thông với ngài điều khiển, mặc dù nhiều yếu tố thánh hóa và chân lý vẫn được gặp thấy bên ngoài cơ cấu Hội Thánh Công giáo.”392
Chú thích
263 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 11.
264 X. Sanctum Officium, Epistula ad Episcopos Angliae (14-9-1864): DS 2888.
265 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3013.
266 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2: AAS 57 (1965) 92.
267 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2: AAS 57 (1965) 92.
268 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 78: AAS 58 (1966) 1101.
269 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2: AAS 57 (1965) 91.
270 Thánh Clêmentê thành A-lê-xan-ri-a, Paedagogus, 1, 6, 42: GCS 12,115 (PG 8,300).
271 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 13: AAS 57 (1965) 18.
272 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2: AAS 57 (1965) 91-92; Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 14: AAS 57 (1965) 18-19; Bộ Giáo Luật, điều 205.
273 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 11-12.
274 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 94.
275 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 92-93.
276 X. Bộ Giáo Luật, điều 751.
277 Ôrigiênê, In Ezechielem holimia, 9, 1: SC 352,296 (PG 13,732).
278 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 93.
279 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.
280 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 93; x. Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 15: AAS 57 (1965) 19.
281 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 93.
282 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.
283 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 4: AAS 57 (1965) 95.
284 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 1: AAS 57 (1965) 90-91.
285 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 6: AAS 57 (1965) 96-97.
286 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 7: AAS 57 (1965) 97.
287 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 8: AAS 57 (1965) 98.
288 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 9: AAS 57 (1965) 98.
289 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 10: AAS 57 (1965) 99.
290 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 4: AAS 57 (1965) 94; Ibid., 9: AAS 57 (1965) 98; Ibid., 11: AAS 57 (1965) 99.
291 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 12: AAS 57 (1965) 99-100.
292 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 5: AAS 57 (1965) 96.
293 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 24: AAS 57 (1965) 107.
294 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 39: AAS 57 (1965) 44.
295 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16.
296 X. Cv 9,l3; 1 Cr 6,l; l6,l.
297 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 10: AAS 56 (1964) 102.
298 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 94.
299 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
300 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
301 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 16. 826. Đức mến là linh hồn của sự thánh thiện mà mọi người được
302 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 42: AAS 57 (1965) 48.
303 Thánh Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su, Manuscrit B, 3v: Manuscrits autobiographiques (Paris 1992) 299.
304 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12; x. Id., Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 92-94; Ibid., 6: AAS 57 (1965) 96-97.
305 X. 1 Ga 1,8-10.
306 X. Mt 13,24-30.
307 ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 19: AAS 60 (1968) 440.
308 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 40: AAS 57 (1965) 44-45; Ibid., 48-51: AAS 57 (1965) 53-58.
309 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Christifideles laici, 16: AAS 81 (1989) 417.
310 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Christifideles laici, 17: AAS 81 (1989) 419-420.
311 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 65: AAS 57 (1965) 64.
312 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Smyrnaeos, 8, 2: SC 10bis, 138 (Funk 1,282).
313 X. Ep 1,22-23.
314 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 6: AAS 58 (1966) 953.
315 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 4: AAS 58 (1966) 950-951.
316 X. Mt 28,19.
317 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 13: AAS 57 (1965) 17.
318 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 26: AAS 57 (1965) 31.
319 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Christus Dominus, 11: AAS 58 (1966) 677; Bộ Giáo Luật, các điều 368-369; Bộ Giáo Luật Đông phương, các điều 177,1.178.311,1.312.
320 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 27.
321 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Romanos, Inscr.: SC 10bis, 106 (Funk 1,252).
322 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 3, 2: SC 211,32 (PG 7,849); x. CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Pater aeternus, c. 2: DS 3057.
323 Thánh Ma-xi-mô Hiển tu, Opuscula theologica et polemica: PG 91,137-140.
324 ĐGH Phao-lô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi, 62: AAS 68 (1976) 52.
325 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 29.
326 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 13: AAS 57 (1965) 18.
327 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 14: AAS 57 (1965) 18-19.
328 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 15: AAS 57 (1965) 19.
329 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 93.
330 ĐGH Phao-lô VI, Allocutio in Aede Sixtina, decem exactis annis a sublatis mutuis excommunicationibus inter Romanam et Constantinôpôlitanam Ecclesias (14-12-1975): AAS 68 (1976) 121; x. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 13-18: AAS 57 (1965) 100-104.
331 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20.
332 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Nostra aetate, 4: AAS 58 (1966) 742-743.
333 Thứ Sáu Tuần Thánh, Nghi thức Cử hành cuộc Thương Khó của Chúa, Cầu nguyện cho mọi người VI: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 254.
334 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20; x. Id., Tuyên ngôn Nostra aetate, 3: AAS 58 (1966) 741-742.
335 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Nostra aetate, 1: AAS 58 (1966) 740.
336 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20; x. Id., Tuyên ngôn Nostra aetate, 2: AAS 58 (1966) 740-741; ĐGH Phao-lô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi, 53: AAS 68 (1976) 41.
337 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20.
338 Thánh Augustinô, Sermo 96, 7, 9: PL 38,588.
339 Thánh Ambrôsiô, De virginitate 18,119: Sancti Ambrosii Episcopi Mediolanensis opera, v. 14/2 (Milano-Roma 1989) 96 (PL 16,297).
340 X. 1 Pr 3,20-21.
341 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 14: AAS 57 (1965) 18.
342 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20; x. Sanctum Officium, Epistula ad Archiepiscopum Bostoniensem (8-8-1949): DS 3866-3872.
343 X. Dt 11,6.
344 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 7: AAS 58 (1966) 955.
345 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 1: AAS 58 (1966) 947.
346 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 2: AAS 58 (1966) 948.
347 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 23: AAS 83 (1991) 269-270.
348 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 6: AAS 58 (1966) 842-843; ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 11: AAS 83 (1991) 259-260.
349 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 21: AAS 83 (1991) 268.
350 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 5: AAS 58 (1966) 952.
351 Tertullianô, Apologeticum, 50, 13: CCL 1,171 (PL 1,603).
352 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 43: AAS 58 (1966) 1064.
353 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12; x. Ibid., 15: AAS 57 (1965) 20.
354 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 1: AAS 58 (1966) 947.
355 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 12-20: AAS 83 (1991) 260-268.
356 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.
357 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 40: AAS 58 (1966) 1058.
358 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 42-47: AAS 83 (1991) 289-295.
359 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 15: AAS 58 (1966) 964.
360 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 48-49: AAS 83 (1991) 295-297.
361 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 52-54: AAS 83 (1991) 299-302.
362 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 6: AAS 58 (1966) 953.
363 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 50: AAS 83 (1991) 297-298.
364 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 4: AAS 57 (1965) 96.
365 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 55: AAS 83 (1991) 302-304.
366 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 9: AAS 58 (1966) 958.
367 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 9: AAS 58 (1966) 958.
368 X. Kh 21,14.
369 X. Mt 28,16-20; Cv 1,8; 1 Cr 9,1; 15,7-8; Gl 1,1; v.v…
370 X. Cv 2,42.
371 X. 2 Tm 1,13-14.
372 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 5: AAS 58 (1966) 952.
373 Kinh Tiền Tụng Lễ Các Thánh Tông Đồ I: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 426.
374 X. Ga 13,20; 17,18.
375 X. Lc 10,l6.
376 X. Ga l5,5.
377 X. Mt 28,20.
378 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 20: AAS 57 (1965) 23.
379 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 20: AAS 57 (1965) 23; x. Thánh Clêmentê Rô-ma, Epistula ad Corinthios, 42, 4: SC 167,168-170 (Funk, 1, 152); Ibid. 44, 2: SC 167,172 (Funk, 1, 154-156).
380 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 20: AAS 57 (1965) 24.
381 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 2: AAS 58 (1966) 838.
382 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 4: AAS 58 (1966) 840; x. Ga 15,5.
383 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 3: AAS 58 (1966) 839.
384 X. Kh 19,6.
385 X. Ep 1,4.
386 X. Kh 21,9.
387 X. Kh 21,10-11.
388 X. Ep 4,3-5.
389 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 2: AAS 58 (1966) 948.
390 X. Kh 21,14.
391 X. Mt 16,18.
392 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 11-12.
Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)
871. 1268-1269, 782-786
“Các Ki-tô hữu là những người, được tháp nhập vào Đức Ki-tô nhờ phép Rửa Tội, được thiết lập thành dân Thiên Chúa, và do đó được tham dự, theo cách của mình, vào chức vụ tư tế, ngôn sứ [tiên tri] và vương đế của Đức Ki-tô, được kêu gọi, tùy theo điều kiện riêng của mỗi người, để thực thi sứ vụ mà Thiên Chúa đã ủy thác cho Hội Thánh phải hoàn thành trong trần gian.”393
872. 1934, 794
“Giữa tất cả các Ki-tô hữu, do việc họ được tái sinh trong Đức Ki-tô, có sự bình đẳng thật sự về phẩm giá và hành động, nhờ đó, tất cả mọi người, tùy theo địa vị và nhiệm vụ riêng của mỗi người, cộng tác vào việc xây dựng Thân Thể Đức Ki-tô.”394
873. 814, 1937
Chính những khác biệt Chúa đã muốn đặt giữa các chi thể của Thân Thể Người, phục vụ cho sự hợp nhất và cho sứ vụ của Thân Thể Người. “Bởi vì trong Hội Thánh có nhiều thừa tác vụ khác nhau nhưng đều cùng chung một sứ vụ. Nhiệm vụ được Đức Ki-tô trao phó cho các Tông Đồ và những vị kế nhiệm các ngài là nhân danh Người và lấy quyền Người mà giảng dạy, thánh hóa và cai quản. Còn các giáo dân, những người được tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Đức Ki-tô, chu toàn những phần việc của mình trong sứ vụ của toàn dân Thiên Chúa trong Hội Thánh và trong trần gian.”395 Cuối cùng, “trong cả hai thành phần này [phẩm trật và giáo dân], có những Ki-tô hữu, qua việc tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm…, được thánh hiến cách đặc biệt cho Thiên Chúa, và làm ích cho sứ vụ cứu độ của Hội Thánh.”396
I. Cơ cấu phẩm trật của Hội Thánh (874-896)
Tại sao có thừa tác vụ trong Hội Thánh? (874-879)
874. 1544
Chính Đức Ki-tô là nguồn mạch của thừa tác vụ trong Hội Thánh. Chính Người đã thiết lập thừa tác vụ, và trao ban thẩm quyền, sứ vụ, phương hướng và mục đích cho thừa tác vụ trong Hội Thánh:
“Để dân Thiên Chúa được chăn dắt và luôn được tăng trưởng, Chúa Ki-tô đã thiết lập các thừa tác vụ khác nhau trong Hội Thánh của Người hầu mưu ích cho toàn thân. Thật vậy, các thừa tác viên, những người sử dụng quyền thánh chức, phục vụ các anh chị em mình, để mọi người thuộc dân Thiên Chúa… đạt tới ơn cứu độ.”397
875. 166, 1548, 1536
“Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15). Không có ai, không có cá nhân nào hay cộng đoàn nào, có thể tự loan báo Tin Mừng cho chính mình. “Có đức tin là nhờ nghe giảng” (Rm 10,17). Không ai có thể tự ban cho mình lệnh truyền và sứ vụ loan báo Tin Mừng. Người được Chúa sai đi nói và hành động không phải do quyền bính riêng, nhưng do sức mạnh quyền bính của Đức Ki-tô; người đó nói với cộng đoàn không phải với tư cách là một thành viên của cộng đoàn, nhưng nhân danh Đức Ki-tô. Không ai có thể tự ban cho mình ân sủng, ân sủng phải được ban tặng. Điều này giả thiết phải có những thừa tác viên của ân sủng, được Đức Ki-tô ban cho quyền bính và tư cách. Từ nơi Đức Ki-tô, các Giám mục và linh mục lãnh nhận sứ vụ và khả năng (“quyền thánh chức”) để hành động trong cương vị Đức Ki-tô là Đầu (in persona Christi Capitis), còn các phó tế lãnh nhận sức mạnh phục vụ dân Thiên Chúa, qua “việc phục vụ” Lời Chúa, phụng vụ và việc bác ái, trong sự hiệp thông với Giám mục và hàng linh mục của ngài. Thừa tác vụ này, trong đó những người được Đức Ki-tô sai đi nhờ hồng ân Thiên Chúa, thực hiện và ban tặng những gì họ không thể tự thực hiện và ban tặng cho chính mình, được truyền thống Hội Thánh gọi là “bí tích.” Thừa tác vụ của Hội Thánh được trao ban qua một bí tích riêng.
876. 1551, 427
Được gắn liền cách nội tại với bản chất bí tích của thừa tác vụ của Hội Thánh là đặc tính phục vụ (indoles servitii) của thừa tác vụ đó. Thật vậy, các thừa tác viên hoàn toàn tùy thuộc Đức Ki-tô là Đấng trao sứ vụ và thẩm quyền, nên họ thật sự là “những nô lệ của Đức Ki-tô”,398 theo gương Đức Ki-tô, Đấng đã tự nguyện nhận lấy “thân nô lệ” (Pl 2,7) vì chúng ta. Bởi vì lời và ân sủng mà họ là thừa tác viên, không phải là của họ, nhưng là của Đức Ki-tô, Đấng đã ủy thác cho họ vì những người khác, nên họ đã tự nguyện trở thành nô lệ của mọi người.399
877. 1559
Cũng vậy, do bản chất bí tích của thừa tác vụ trong Hội Thánh, nên thừa tác vụ đó có đặc tính tập thể (indolem collegialem). Thật vậy, Chúa Giê-su, từ lúc khởi đầu thừa tác vụ của mình, đã thiết lập nhóm Mười Hai, “mầm mống của dân Ít-ra-en mới, đồng thời là nguồn gốc của phẩm trật có chức thánh.”400 Cùng được tuyển chọn một trật, và cùng được sai đi một trật, sự hợp nhất huynh đệ của các ngài sẽ phục vụ sự hiệp thông huynh đệ của tất cả các tín hữu; sự hiệp thông này sẽ là phản ảnh và làm chứng cho sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa.401 Vì vậy, Giám mục nào cũng thực thi thừa tác vụ của mình trong Giám mục đoàn, trong sự hiệp thông với Giám mục Rô-ma là vị kế nhiệm thánh Phê-rô và là đầu của Giám mục đoàn; các linh mục thực thi thừa tác vụ của mình trong linh mục đoàn giáo phận, dưới sự hướng dẫn của Giám mục của mình.
878. 1484
Sau cùng, do bản chất bí tích của thừa tác vụ trong Hội Thánh, nên thừa tác vụ đó có đặc tính cá vị (indolem personalem). Nếu các thừa tác viên của Đức Ki-tô hành động trong sự hiệp thông, thì họ cũng luôn luôn hành động cách cá vị. Mỗi người được kêu gọi cách cá vị: “Phần anh, hãy theo Thầy” (Ga 21,22),402 để, trong sứ vụ chung, người đó phải là một chứng nhân cá vị, khi lãnh trách nhiệm cách cá vị trước mặt Đấng trao ban sứ vụ, và khi hành động “trong cương vị của Người” (“in Eius persona”) hầu phục vụ các nhân vị: “Tôi rửa anh nhân danh Cha…”; “Tôi tha tội cho anh…”
879. Vì vậy, thừa tác vụ bí tích trong Hội Thánh là một việc phục vụ được thực thi nhân danh Đức Ki-tô. Thừa tác vụ đó có đặc tính cá vị và hình thức tập đoàn. Điều đó được thể hiện trong những mối liên hệ giữa Giám mục đoàn và đầu Giám mục đoàn, là vị kế nhiệm thánh Phê-rô, và trong tương quan giữa trách nhiệm mục vụ của Giám mục đối với giáo phận của mình và sự quan tâm chung của Giám mục đoàn đối với Hội Thánh phổ quát.
Giám mục đoàn và vị đứng đầu là Đức Giáo Hoàng (880-887)
880. 552, 862
“Đức Ki-tô, khi thành lập nhóm Mười Hai, đã thiết lập các ông theo cách thức một tập thể, một nhóm bền vững; Người đã đặt ông Phê-rô, được chọn trong số họ, đứng đầu tập thể đó.”403 “Cũng như do Chúa thiết lập, thánh Phê-rô và các Tông Đồ khác lập thành một Tông Đồ Đoàn, thì Giám mục Rô-ma, vị kế nhiệm thánh Phê-rô và các Giám mục, những người kế nhiệm các Tông Đồ, cũng được kết hợp với nhau như vậy.”404
881. 553, 642
Chúa đã đặt một mình ông Simon, mà Người đặt tên là Phê-rô, làm đá tảng của Hội Thánh Người. Người đã trao cho ông các chìa khóa của Hội Thánh;405 và đặt ông làm mục tử của toàn thể đoàn chiên.406 “Tuy nhiên, nhiệm vụ tháo gỡ và cầm buộc, đã được ban cho ông Phê-rô, rõ ràng cũng đã được trao ban cho Tông Đồ đoàn, hợp nhất với đầu của mình.”407 Nhiệm vụ mục tử này của thánh Phê-rô và của các Tông Đồ khác thuộc về nền móng của Hội Thánh. Nhiệm vụ đó được tiếp tục bởi các Giám mục dưới quyền tối thượng của Giám mục Rô-ma.
882. 834, 1369, 837
Đức Giáo Hoàng, là Giám mục Rô-ma và vị kế nhiệm thánh Phê-rô, “là nguyên lý và nền tảng hữu hình và trường tồn của sự hợp nhất, cả của cộng đoàn các Giám mục, cả của cộng đoàn các tín hữu.”408 “Thật vậy, do nhiệm vụ của mình là Đại diện Đức Ki-tô và Mục tử của toàn thể Hội Thánh, Giám mục Rô-ma có quyền trọn vẹn, tối cao và phổ quát trong Hội Thánh và ngài luôn có quyền tự ý thực thi thẩm quyền đó.”409
883. “Giám mục đoàn không có thẩm quyền, nếu không kết hợp với Giám mục Rô-ma là thủ lãnh của họ.” Như vậy, Giám mục đoàn “cũng có quyền trọn vẹn và tối cao trong Hội Thánh phổ quát, nhưng chỉ có thể thi hành thẩm quyền này với sự ưng thuận của Giám mục Rô-ma.”410
Bài này đã được xem 5655 lần!