GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

884. “Giám mục đoàn thực thi thẩm quyền trong Hội Thánh phổ quát một cách trọng thể trong Công đồng chung.”411 “Nhưng không bao giờ có thể có Công đồng chung, nếu không được vị kế nhiệm thánh Phê-rô phê chuẩn hay ít ra chấp nhận.”412

885. “Giám mục đoàn vừa diễn tả tính đa dạng và tính phổ quát của dân Thiên Chúa vì gồm nhiều người, vừa diễn tả sự hợp nhất của đoàn chiên của Đức Ki-tô, vì được tập họp dưới quyền một vị làm đầu.”413

886. 1560, 833, 2448

“Mỗi Giám mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất trong Giáo Hội địa phương của ngài.”414 Như vậy, “mỗi Giám mục thực thi quyền mục vụ của mình trên phần dân Thiên Chúa được ủy thác cho mình”,415 với sự trợ giúp của các linh mục và phó tế. Nhưng, với tư cách là thành viên Giám mục đoàn, mỗi Giám mục tham dự vào sự quan tâm đến tất cả các Giáo Hội,416 các ngài thực thi sự quan tâm đó trước hết bằng việc “điều hành tốt Giáo Hội riêng như một phần của Hội Thánh phổ quát”, như vậy các ngài “mưu ích cho toàn nhiệm thể, cũng là thân thể của các Giáo Hội.”417 Mối quan tâm này được đặc biệt hướng đến những người nghèo,418 những người bị bách hại vì đức tin, cũng như đến các thừa sai đang hoạt động trên toàn trái đất.

887. Các Giáo Hội địa phương lân cận và có chung nền văn hóa tạo thành những giáo tỉnh, hay những tập thể lớn hơn được gọi là giáo miền hay địa hạt thượng phụ.419 Các Giám mục của những tập thể này có thể họp Công nghị hay Công đồng giáo tỉnh. “Cũng vậy, ngày nay các Hội đồng Giám mục có thể góp phần một cách đa dạng và phong phú để ý kiến tập đoàn được áp dụng cụ thể.”420

Nhiệm vụ giảng dạy (888-892) [85-87; 2032-2040]

888. 2068

Các Giám mục, với các linh mục là những cộng sự viên của ngài, “có nhiệm vụ trước tiên là phải loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho mọi người”,421 theo lệnh truyền của Chúa.422 Các ngài “là sứ giả của đức tin, dẫn đưa những môn đệ mới đến với Đức Ki-tô, và là những vị thầy đích thực” “được ban thẩm quyền của Đức Ki-tô”423 để giảng dạy đức tin tông truyền.

889. 92

Đức Ki-tô, Đấng là chân lý, để gìn giữ Hội Thánh trong đức tin tinh tuyền do các Tông Đồ lưu truyền, đã muốn cho Hội Thánh của Người được tham dự vào sự bất khả ngộ của riêng Người. “Nhờ cảm thức siêu nhiên của đức tin”, dân Thiên Chúa “gắn bó cách kiên vững với đức tin”, dưới sự hướng dẫn của Huấn quyền sống động của Hội Thánh.424

890. 851, 1785

Sứ vụ của Huấn quyền gắn liền với tính chất vĩnh viễn của Giao Ước được Thiên Chúa lập với dân Ngài trong Đức Ki-tô; Huấn quyền phải bảo vệ dân Thiên Chúa khỏi những sai lạc và khiếm khuyết, và bảo đảm cho dân khả năng khách quan để tuyên xưng đức tin chân chính một cách không sai lầm. Như vậy, nhiệm vụ mục tử của Huấn quyền là tỉnh thức lo cho dân Thiên Chúa vững bền trong chân lý, một chân lý có sức giải phóng. Để Huấn quyền hoàn thành nhiệm vụ này, Đức Ki-tô đã ban cho các mục tử đặc sủng bất khả ngộ trong các vấn đề về đức tin và phong hóa. Việc thực thi đặc sủng này có thể mang những dạng khác nhau:

891. “Do nhiệm vụ của ngài, Giám mục Rô-ma, là đầu của Giám mục đoàn, được hưởng ơn bất khả ngộ đó khi, với tư cách là mục tử và thầy dạy tối cao của mọi Ki-tô hữu, là người củng cố anh em mình trong đức tin, ngài công bố một đạo lý về đức tin hoặc phong hóa bằng một hành vi chung thẩm… Ơn bất khả ngộ được hứa ban cho Hội Thánh cũng có nơi Giám mục đoàn, khi các ngài thực thi Huấn quyền tối thượng cùng với vị kế nhiệm thánh Phê-rô”, nhất là trong một Công đồng chung.425 Khi Hội Thánh dùng Huấn quyền tối thượng để “dạy phải tin một điều gì như là do Thiên Chúa mặc khải”426 và như là giáo huấn của Đức Ki-tô, thì người ta “phải gắn bó với những xác quyết đó bằng sự vâng phục của đức tin.”427 “Kho tàng Mặc khải thần linh trải rộng bao nhiêu, thì ơn bất khả ngộ này trải rộng bấy nhiêu.”428

892. Ơn trợ giúp thần linh cũng được ban cho các vị kế nhiệm các Tông Đồ khi giáo huấn cùng với vị kế nhiệm thánh Phê-rô, và cách riêng cho Giám mục Rô-ma, Mục tử của toàn thể Hội Thánh, khi các ngài thực thi Huấn quyền thông thường mà dạy một đạo lý giúp hiểu tốt hơn Mặc khải trong các vấn đề về đức tin và phong hóa, dầu các ngài không xác quyết cách bất khả ngộ, hoặc không diễn tả “một cách chung thẩm.” Các Ki-tô hữu “phải gắn bó với Huấn quyền thông thường này bằng sự vâng phục đạo hạnh của tâm hồn”,429 sự vâng phục đạo hạnh này, tuy khác biệt với sự ưng thuận của đức tin, nhưng nối dài sự ưng thuận của đức tin.

Nhiệm vụ thánh hóa (893)

893. 1561

Giám mục cũng là “người phục vụ ân sủng của chức tư tế tối cao”,430 nhất là trong bí tích Thánh Thể do chính ngài dâng và ngài bảo đảm việc hiến dâng nhờ các linh mục, là các cộng sự viên của ngài. Thật vậy, bí tích Thánh Thể là tâm điểm của đời sống Giáo hội địa phương. Giám mục và các linh mục thánh hóa Giáo hội bằng kinh nguyện và việc làm của mình, nhờ thừa tác vụ Lời Chúa và các bí tích. Các ngài thánh hóa Giáo Hội nhờ gương mẫu của mình, “đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1 Pr 5,3). Như vậy, “cùng với đoàn chiên được ủy thác cho mình, các ngài có thể đạt tới sự sống vĩnh cửu.”431

Nhiệm vụ cai quản (894-896)

894. 801

“Như vị đại diện và sứ giả của Đức Ki-tô, các Giám mục cai quản các Giáo Hội địa phương được trao phó cho mình bằng những lời khuyên bảo, khích lệ, gương sáng của mình, và cũng bằng thẩm quyền và và quyền thánh chức”,432 mà các ngài phải thực thi để xây dựng trong tinh thần phục vụ, là tinh thần của Thầy mình.433

895. 1558

“Quyền năng này, mà các ngài thi hành một cách cá vị, nhân danh Đức Ki-tô, là một quyền năng riêng, thông thường và trực tiếp; tuy việc thực thi quyền này cuối cùng phải được hướng dẫn bởi thẩm quyền tối cao của Hội Thánh.”434 Nhưng không được coi các Giám mục như những đại diện của Giám mục Rô-ma: thẩm quyền thông thường và trực tiếp của vị này trên toàn Hội Thánh không hủy bỏ, nhưng trái lại, củng cố và bảo vệ thẩm quyền của các Giám mục. Thẩm quyền này phải được thực thi trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh dưới sự hướng dẫn của Giám mục Rô-ma.

896. 1550

Vị Mục Tử nhân lành phải là gương mẫu và “khuôn mẫu” cho nhiệm vụ mục tử của Giám mục. Ý thức về những yếu đuối của mình, Giám mục “có thể cảm thông với những ai dốt nát và lầm lạc. Ngài không nên từ chối lắng nghe những kẻ thuộc quyền, mà ngài ân cần săn sóc như những người con thật của mình… Còn các tín hữu phải gắn bó với Giám mục của mình như Hội Thánh gắn bó với Chúa Giê-su Ki-tô và như Chúa Giê-su Ki-tô gắn bó với Chúa Cha.”435

“Tất cả anh em hãy vâng phục Giám mục, như Chúa Giê-su Ki-tô vâng phục Chúa Cha; hãy vâng phục linh mục đoàn như vâng phục các Tông Đồ; và hãy kính trọng các phó tế như kính trọng lệnh truyền của Chúa. Chớ gì không ai làm điều gì có liên quan đến Hội Thánh một cách tách biệt với Giám mục.”436

II. Các Ki-tô hữu giáo dân (897-913)

897. 873

“Danh xưng giáo dân ở đây được dùng để chỉ tất cả các Ki-tô hữu trừ những thành viên có chức thánh và bậc tu trì đã được Hội Thánh công nhận, nghĩa là các Ki-tô hữu, đã được tháp nhập vào Đức Ki-tô nhờ phép Rửa Tội, đã được thiết đặt vào dân Thiên Chúa, được tham dự vào nhiệm vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Đức Ki-tô theo cách thức của mình, theo phần vụ của mình mà thực thi sứ vụ của toàn dân Ki-tô Giáo trong Hội Thánh và trên trần gian.”437

Ơn gọi của các giáo dân (898-900)

898. 2105

“Ơn gọi riêng của các giáo dân là tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng việc quản trị và sắp xếp các thực tại trần gian theo ý Thiên Chúa… Vậy một cách đặc biệt, nhiệm vụ của họ là phải soi sáng và sắp xếp thế nào, để các thực tại trần gian, vốn liên kết mật thiết với họ, không ngừng được thực hiện và phát triển theo Đức Ki-tô, để ca ngợi Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc.”438

899. 2442

Các sáng kiến của các Ki-tô hữu giáo dân là đặc biệt cần thiết khi phải khám phá và phát minh ra những phương tiện để đem các đòi hỏi của đạo lý và đời sống Ki-tô Giáo thấm nhập vào các thực tại xã hội, chính trị và kinh tế. Các sáng kiến này là một yếu tố bình thường của đời sống Hội Thánh:

“Các Ki-tô hữu, và cụ thể hơn, là các giáo dân, đứng ở tuyến đầu của đời sống Hội Thánh; nhờ họ, Hội Thánh là nguyên lý sống động của xã hội nhân loại. Vì vậy, họ đặc biệt phải luôn ý thức rõ ràng hơn rằng không những họ thuộc về Hội Thánh, mà họ còn là Hội Thánh, nghĩa là, là cộng đoàn các Ki-tô hữu trên trần thế dưới sự hướng dẫn của vị làm đầu chung là Giám mục Rô-ma, và của các Giám mục hiệp thông với ngài. Họ là Hội Thánh.”439

900. 863

Bởi vì việc tông đồ đã được Thiên Chúa trao phó cho họ, cũng như cho mọi Ki-tô hữu khác, qua bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, nên các giáo dân có bổn phận và có quyền lợi làm việc, hoặc một cách cá nhân, hoặc được quy tụ trong các hiệp hội, để sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa được mọi người ở khắp trái đất nhận biết và đón nhận; nghĩa vụ này còn khẩn cấp hơn khi chỉ nhờ họ, người ta mới có thể được nghe Tin Mừng và nhận biết Đức Ki-tô. Hành động của họ trong các cộng đoàn Hội Thánh là hết sức cần thiết, đến nỗi nếu không có hành động đó, thì việc tông đồ của các mục tử thường không thể đạt được hiệu quả đầy đủ.440

Giáo dân tham dự vào nhiệm vụ tư tế của Đức Ki-tô (901-903)

901. 784, 1268, 358

“Các giáo dân, vì đã được thánh hiến cho Đức Ki-tô và được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, được kêu gọi và được chuẩn bị cách kỳ diệu để Thần Khí luôn mang lại những hoa trái dồi dào hơn nơi họ. Thật vậy, tất cả các công việc của họ, những lời cầu nguyện và việc dấn thân làm tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, việc lao động hằng ngày, việc thư giãn tinh thần và thể xác, nếu được thực hiện trong Thần Khí, và cả những khó khăn trong cuộc sống nếu được chịu đựng cách kiên nhẫn, thì tất cả đều trở nên những hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô (x. 1 Pr 2,5), những hiến lễ đó được dâng lên Chúa Cha một cách rất thành kính, khi cử hành Thánh lễ, cùng với lễ vật là Mình Thánh Chúa. Như vậy, các giáo dân, với tư cách là những người tôn thờ bằng hành động một cách thánh thiện ở khắp nơi, cũng dâng chính trần gian lên Thiên Chúa.”441

902. Đặc biệt, các cha mẹ tham dự vào nhiệm vụ thánh hóa “bằng cách sống đời sống phu phụ theo tinh thần Ki-tô Giáo và lo cho con cái được hưởng nền giáo dục Ki-tô Giáo.”442

903. 1143

Các giáo dân, nếu có những phẩm chất đòi phải có, có thể được chấp nhận lãnh các thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ một cách bền vững.443 “Ở đâu nhu cầu Hội Thánh đòi hỏi, vì thiếu thừa tác viên, các giáo dân, dù không có chức đọc sách và giúp lễ, cũng có thể làm thay một số việc của các thừa tác viên, cụ thể là thực thi thừa tác vụ Lời Chúa, chủ tọa các buổi đọc kinh phụng vụ, ban Phép Rửa và cho rước lễ, theo các quy định của giáo luật.”444

904. 785, 92

“Đức Ki-tô… chu toàn nhiệm vụ ngôn sứ của Người, không những nhờ Phẩm trật… nhưng còn nhờ các giáo dân, những kẻ Người đã đặt làm chứng nhân và ban cho họ cảm thức đức tin và ơn ngôn ngữ.”445

“Dạy dỗ… để dẫn đến đức tin… là nhiệm vụ của bất cứ vị giảng thuyết nào, và cũng là của bất cứ tín hữu nào.”446

Giáo dân tham gia vào nhiệm vụ ngôn sứ của Đức Ki-tô (904-907)

905. 2044, 2472

Các giáo dân cũng chu toàn sứ vụ ngôn sứ của mình bằng việc phúc âm hóa, “nghĩa là loan báo Đức Ki-tô bằng chứng từ đời sống và bằng lời nói.” Nơi các giáo dân, “việc phúc âm hóa này… mang một sắc thái đặc thù và một hiệu quả đặc biệt vì được thực hiện trong những hoàn cảnh bình thường của đời sống.”447

“Quả thật, việc tông đồ như vậy không chỉ cốt tại chứng từ đời sống; việc tông đồ thật tìm những cơ hội để loan báo Đức Ki-tô bằng lời nói hoặc cho những người chưa tin… hoặc cho các tín hữu.”448

906. 2495

Những ai trong các Ki-tô hữu giáo dân có khả năng và đã được huấn luyện, cũng có thể góp phần mình vào việc dạy giáo lý,449 vào việc giảng dạy các khoa học thánh,450 vào các phương tiện truyền thông xã hội.451

907. “Tùy theo kiến thức, thẩm quyền và uy tín bản thân, các Ki-tô hữu có quyền, và đôi khi có cả bổn phận phải bày tỏ cho các vị Mục tử có chức thánh biết ý kiến của họ liên quan tới lợi ích của Hội Thánh, họ cũng có quyền bộc lộ ý kiến của họ cho các Ki-tô hữu khác, miễn là bảo vệ được sự toàn vẹn của tín lý và luân lý, cũng như lòng kính trọng các vị Mục tử, và phải lưu ý đến công ích và phẩm giá của tha nhân.”452

Giáo dân tham gia vào nhiệm vụ vương đế của Đức Ki-tô (908-913)

908. 786

Đức Ki-tô, nhờ việc Người vâng phục cho đến chết,453 đã truyền thông cho các môn đệ của Người hồng ân là sự tự do vương đế để “bằng sự từ bỏ mình và bằng đời sống thánh thiện, họ có thể chiến thắng vương quốc của tội lỗi nơi chính bản thân họ.”454

“Bất cứ ai chế ngự được thân xác mình và làm chủ bản thân một cách năng động thích hợp, không để linh hồn mình bị khích động bởi các đam mê, thì, vì kiềm chế tốt bản thân bằng một loại quyền năng vương đế, người đó được gọi là vua, người đó biết cai trị bản thân và là thẩm phán của mình, không bị lôi cuốn vào tội lỗi mà thành nô lệ.”455

909. 1887

“Ngoài ra, khi các cơ chế và hoàn cảnh của trần gian gây nên dịp tội, người giáo dân cũng phải hợp sức làm cho các cơ chế và hoàn cảnh đó trở nên lành mạnh, sao cho chúng phù hợp với các quy luật của đức công bằng, và nâng đỡ hơn là chống lại việc thực thi các nhân đức. Bằng hành động như vậy, họ làm cho nền văn hóa và các công trình nhân loại được thấm nhuần những giá trị luân lý.”456

910. 799

“Các giáo dân… có thể cảm thấy mình được kêu gọi hay đã được kêu gọi để cộng tác với các Mục tử trong việc phục vụ cộng đoàn Hội Thánh, để làm cho đời sống cộng đoàn được tăng trưởng và phong phú, khi họ thực thi những thừa tác vụ rất đa dạng, tùy theo ân sủng và các đặc sủng, mà Chúa đã muốn rộng ban cho họ.”457

911. Trong Hội Thánh, trong việc thực thi quyền cai quản, “các Ki-tô hữu giáo dân có thể cộng tác chiếu theo quy tắc của luật.”458 Như vậy, có sự hiện diện của họ trong các Công đồng địa phương,459 các Công nghị giáo phận,460 các Hội đồng mục vụ;461 trong việc thực thi trách nhiệm mục vụ trong một giáo xứ;462 cộng tác trong các Hội đồng kinh tế;463 tham gia vào các Tòa án giáo hội,464 v.v…

912. 2245

Các Ki-tô hữu phải “cẩn thận phân biệt đâu là quyền lợi và nghĩa vụ của họ với tư cách là phần tử của Hội Thánh, đâu là quyền lợi và nghĩa vụ của họ với tư cách là phần tử của xã hội nhân loại. Họ phải cố gắng nối kết cả hai một cách hài hòa, mà nhớ rằng, họ phải được hướng dẫn bởi lương tâm Ki-tô hữu, trong bất cứ công việc trần thế nào, vì không một hoạt động nhân loại nào, dầu trong các công việc trần thế, có thể vượt khỏi quyền thống trị của Thiên Chúa.”465

913. “Như vậy, mỗi giáo dân, do chính những hồng ân đã được ban cho mình, là chứng nhân và đồng thời là dụng cụ sống động của chính sứ vụ của Hội Thánh, ‘tùy theo mức độ Đức Ki-tô ban cho’ (Ep 4,7).”466

III. Đời sống thánh hiến (914-933)

914. 2103

“Bậc sống… được thiết lập do việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Hội Thánh, vẫn thuộc về đời sống và sự thánh thiện của Hội Thánh một cách vững bền.”467

Các lời khuyên Phúc Âm và đời sống thánh hiến (915-916)

915. 1973-1974

Các lời khuyên Phúc Âm, vốn có nhiều, được đề ra cho tất cả các môn đệ của Đức Ki-tô. Sự hoàn hảo của đức mến, mà tất cả các Ki-tô hữu được kêu gọi tới, đối với những ai tự nguyện đảm nhận ơn gọi sống đời sống thánh hiến, bao hàm nghĩa vụ tuân giữ đức khiết tịnh trong sự độc thân vì Nước Trời, đức khó nghèo và đức vâng phục. Việc tuyên giữ các lời khuyên này, trong một bậc sống vững bền được Hội Thánh công nhận, là đặc tính của “đời sống thánh hiến” cho Thiên Chúa.468

916. 2687, 933

Bậc sống “đời sống thánh hiến” xuất hiện như một trong những cách để sống một cách “thân mật hơn” sự thánh hiến đã bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa.469 Trong đời sống thánh hiến, các Ki-tô hữu muốn mình, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, bước theo Đức Ki-tô cách gần gũi hơn, tự hiến cho Thiên Chúa đáng mến trên hết mọi sự, và theo đuổi sự trọn hảo của đức mến để phục vụ Nước Trời, bày tỏ và loan báo trong Hội Thánh sự vinh quang của thế giới tương lai.470

Bài này đã được xem 5594 lần!

Pages ( 34 of 96 ): <1 ... 3233 34 3536 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]