GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Một cây lớn có nhiều cành (917-919)

917. 2684

“Như trong một cây lớn mọc lên từ hạt giống do Thiên Chúa gieo trồng và đâm cành cách kỳ diệu và đa dạng trong cánh đồng của Chúa, [đã phát sinh] những hình thức khác nhau của đời sống đan tu hoặc cộng đoàn, và những gia đình khác nhau…, họ làm gia tăng sản nghiệp, vừa sinh ích cho các thành viên, vừa sinh ích cho toàn Thân Thể của Đức Ki-tô.”471

918. “Ngay từ thời sơ khai của Hội Thánh, đã có những người nam và người nữ, có ý muốn nhờ việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm để bước theo Đức Ki-tô cách tự do hơn, và bắt chước Người cách khắng khít hơn, và mỗi người một cách, họ sống một cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa. Nhiều người trong số đó, được Chúa Thánh Thần linh hứng, hoặc đã sống cuộc đời cô tịch, hoặc đã lập ra những gia đình tu sĩ mà Hội Thánh, bằng thẩm quyền của mình, đã sẵn lòng chấp nhận và phê chuẩn.”472

919. Các Giám mục phải luôn cố gắng phân định những hồng ân mới của đời sống thánh hiến, được Chúa Thánh Thần phó thác cho Hội Thánh của Ngài; việc phê chuẩn những hình thức mới của đời sống thánh hiến được dành riêng cho Tòa Thánh.473

Đời ẩn tu (920-921)

920. Các ẩn sĩ, dầu không luôn luôn tuyên giữ cách công khai ba lời khuyên Phúc Âm, đã “hiến dâng đời mình để ngợi khen Thiên Chúa và mưu cầu phần rỗi cho thế giới bằng việc sống cách biệt với thế gian hơn, trong sự thinh lặng đơn độc, trong việc chuyên cần cầu nguyện và trong sự sám hối.”474

921. 2719, 2015

Các ẩn sĩ tỏ cho thấy phương diện nội tâm hơn của mầu nhiệm Hội Thánh, là sự thân mật cá vị với Đức Ki-tô. Dù mắt người ta không thấy, nhưng đời ẩn tu là sự rao giảng thầm lặng về Đức Ki-tô, Đấng mà ẩn sĩ hiến dâng đời mình cho Người, bởi vì Người là tất cả mọi sự đối với họ. Đây là một ơn gọi đặc biệt nhằm gặp được vinh quang của Đấng chịu đóng đinh vào thập giá, trong hoang địa, trong chính cuộc chiến đấu thiêng liêng.

Các trinh nữ và góa phụ sống đời sống thánh hiến (922-924)

922. 1618-1620

Từ thời các Tông Đồ, đã có những trinh nữ475 và góa phụ Ki-tô hữu476 được Chúa kêu gọi để gắn bó với Người một cách không chia sẻ trong sự tự do hơn của trái tim, thể xác và tinh thần, họ đã quyết định, và được Hội Thánh phê chuẩn, sống trong bậc đồng trinh hoặc tiết dục vĩnh viễn “vì Nước Trời” (Mt 19,12).

923. 1537, 1672

Các trinh nữ “là những người nói lên sự quyết tâm lành thánh theo sát Đức Ki-tô, họ được Giám mục giáo phận cung hiến cho Thiên Chúa theo nghi thức phụng vụ được phê chuẩn, họ đính hôn cách huyền nhiệm với Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, và hiến thân phục vụ Hội Thánh.”477 Qua nghi thức trọng thể này (Nghi thức Thánh hiến các Trinh nữ), “trinh nữ trở thành một nhân vị được thánh hiến, một dấu chỉ siêu việt của tình yêu của Hội Thánh đối với Đức Ki-tô, một hình ảnh cánh chung của Hiền thê thiên quốc và của đời sống tương lai.”478

924. Gần gũi với những hình thức khác của đời sống thánh hiến,479 bậc đồng trinh đặt người nữ sống giữa trần gian (hoặc nữ đan sĩ) trong kinh nguyện, sám hối, phục vụ anh chị em và làm việc tông đồ, tùy theo bậc sống và đặc sủng được ban cho mỗi người.480 Các trinh nữ được thánh hiến có thể được liên kết lại, để tuân giữ quyết định của mình cách trung thành hơn.481

Đời tu dòng (925-927)

925. 1672

Đời tu dòng, đã xuất hiện tại Đông phương trong những thế kỷ đầu của Ki-tô Giáo482 và được thực hiện trong các dòng tu do Hội Thánh thiết lập theo giáo luật,483 phân biệt với những hình thức khác của đời sống thánh hiến về phương diện phụng tự, việc tuyên khấn công khai các lời khuyên Phúc Âm, chung sống đời huynh đệ, làm bằng chứng cho sự kết hợp giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh.484

926. 796

Đời tu dòng xuất phát từ mầu nhiệm Hội Thánh. Đó là một hồng ân Hội Thánh lãnh nhận từ Chúa mình và hồng ân đó, Hội Thánh trao lại, xét như một bậc sống bền vững, cho tín hữu được Thiên Chúa kêu gọi tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm. Như vậy, Hội Thánh có thể vừa biểu lộ Đức Ki-tô vừa nhận biết mình như Hiền Thê của Đấng Cứu Độ. Đời tu dòng, dưới những hình thức khác nhau, được mời gọi để nói lên chính tình yêu của Thiên Chúa, trong ngôn ngữ của thời đại chúng ta.

927. 854

Tất cả các tu sĩ, dù thuộc dòng miễn trừ hay không miễn trừ,485 đều có chỗ trong số những cộng sự viên của Giám mục giáo phận trong nhiệm vụ mục tử của ngài.486 Ngay từ lúc khởi đầu việc phúc âm hóa, việc gieo trồng và phát triển truyền giáo của Hội Thánh đòi sự hiện diện của đời tu dòng dưới mọi hình thức.487 “Lịch sử chứng minh công lao to lớn của các Hội dòng trong việc truyền bá đức tin và trong việc hình thành các Giáo Hội mới: không những công lao của các Đan viện cổ xưa và các Dòng tu thời Trung cổ, mà còn của những Cộng đoàn trong thời đại chúng ta.”488

Các tu hội đời (928-929)

928. “Tu hội đời là một tu hội của đời sống thánh hiến, trong đó các Ki-tô hữu sống giữa thế giới cố gắng vươn tới sự trọn hảo của đức mến và góp phần vào việc thánh hóa trần gian một cách đặc biệt từ bên trong.”489

929. 901

“Bằng đời sống được dâng hiến trọn vẹn và hoàn toàn cho việc thánh hóa trần gian”,490 các thành viên của những tu hội này “tham gia vào nhiệm vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh, giữa thế giới và từ thế giới”,491 trong đó, sự hiện diện của họ tác động như men trong bột.492 Bằng chứng của đời sống Ki-tô hữu của họ nhằm quy hướng các việc trần thế theo Thiên Chúa và hình thành trần gian bằng sức mạnh của Tin Mừng. Bằng những mối ràng buộc thánh, họ sống các lời khuyên Phúc Âm và gìn giữ sự hiệp thông và tình huynh đệ với nhau, phù hợp với tính cách thế tục riêng trong lối sống của họ.493

Các tu đoàn tông đồ (930)

930. Bên cạnh những hình thức khác nhau của đời sống thánh hiến, “là các tu đoàn tông đồ, mà các thành viên theo đuổi mục đích tông đồ riêng của tu đoàn, dù không có lời khấn dòng, và sống chung như anh chị em theo một lối sống riêng, để vươn tới sự trọn hảo của đức mến qua việc tuân giữ hiến pháp. Trong số các tu đoàn ấy, có những tu đoàn mà các thành viên đảm nhận các lời khuyên Phúc Âm” tùy theo hiến pháp của họ.494

Thánh hiến và sứ vụ: loan báo Đức Vua ngự đến (931-933)

931. Người đã được Phép Rửa dành riêng cho Thiên Chúa, nay hiến thân cho Ngài là Đấng đáng mến trên hết mọi sự, như vậy người đó cố gắng để, một cách mật thiết hơn, được thánh hiến cho việc phục vụ Thiên Chúa và dấn thân mưu ích cho Hội Thánh. Nhờ bậc sống đời sống thánh hiến, Hội Thánh biểu lộ Đức Ki-tô và cho thấy Chúa Thánh Thần hành động trong Hội Thánh một cách kỳ diệu như thế nào. Những ai tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm có sứ vụ đầu tiên là sống sự thánh hiến của mình. Vì họ “dấn thân phục vụ Hội Thánh do chính sự thánh hiến của mình, cho nên họ buộc phải hoạt động cách đặc biệt cho công cuộc truyền giáo, theo thể thức riêng của hội dòng.”495

932. 775

Trong Hội Thánh, như là một bí tích, nghĩa là một dấu chỉ và dụng cụ của sự sống của Thiên Chúa, đời tu dòng xuất hiện như một dấu chỉ đặc biệt của mầu nhiệm Cứu Chuộc. Bước theo và bắt chước Đức Ki-tô “một cách gần gũi hơn”, biểu lộ sự hủy mình ra không của Người “một cách rõ ràng hơn”, là hiện diện “một cách sâu sắc hơn”, trong trái tim Đức Ki-tô, với những người đương thời của mình. Những ai đi trên con đường “hẹp hơn” này khích động anh chị em bằng gương sáng của mình, và “đưa ra một bằng chứng sáng chói và nổi bật rằng, trần gian không thể được biến hình và được dâng lên cho Thiên Chúa nếu không có tinh thần của các mối phúc.”496

933. 672, 769

Dù chứng tá của họ có đặc tính công khai, như trong bậc tu dòng, hoặc ở mức riêng tư hơn, thậm chí bí mật nữa, thì đối với tất cả những người sống đời sống thánh hiến, ngày Ngự đến của Đức Ki-tô vẫn luôn là nguồn gốc và định hướng của cuộc đời họ:

“Quả thật, bởi vì dân Thiên Chúa không có một thành trì vĩnh viễn ở đời này,… nên bậc sống thánh hiến vừa biểu lộ những sự tốt đẹp của thiên quốc đã hiện diện nơi trần thế này cho tất cả những ai tin, vừa làm chứng rằng một đời sống mới và vĩnh cửu đã được thủ đắc nhờ sự Cứu Chuộc của Đức Ki-tô, vừa tiên báo sự phục sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời.”497

Tóm lược (934-945)

934. “Do sự thiết định của Thiên Chúa, trong Hội Thánh, giữa các Ki-tô hữu có những thừa tác viên có chức thánh, theo luật được gọi là giáo sĩ, và những người khác, được gọi là giáo dân.” Cuối cùng, trong cả hai thành phần đó, có những Ki-tô hữu, qua việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, được thánh hiến cho Thiên Chúa và như vậy, phục vụ sứ vụ của Hội Thánh.498

935. Đức Ki-tô sai các Tông Đồ của Người và những vị kế nhiệm các ngài đi rao giảng đức tin và thiết lập Nước Người. Người cho họ tham gia vào sứ vụ của Người. Bởi Người, họ lãnh nhận quyền hành động trong cương vị của Người (in Eius persona).

936. Chúa đã đặt thánh Phê-rô làm nền tảng hữu hình của Hội Thánh của Người. Người đã ban cho ông các chìa khóa của Hội Thánh. Giám mục Giáo Hội Rô-ma, vị kế nhiệm thánh Phê-rô, là “thủ lãnh của Giám mục đoàn, là Đấng Đại diện Đức Ki-tô và là Mục tử của toàn thể Hội Thánh trên trần gian.”499

937. Giám mục Rô-ma “do sự thiết định của Thiên Chúa, được hưởng quyền trọn vẹn, tối cao, trực tiếp và phổ quát trong việc chăm sóc các linh hồn.”500

938. Các Giám mục, được thiết đặt bởi Chúa Thánh Thần, kế nhiệm các Tông Đồ. “Mỗi Giám mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất trong các Giáo Hội địa phương của các ngài.”501

939. Các Giám mục, được các linh mục là các cộng sự viên của ngài, và các phó tế giúp đỡ, có nhiệm vụ giảng dạy đức tin một cách xác thực, cử hành phụng tự thần linh nhất là bí tích Thánh Thể, cai quản các Giáo Hội của mình với tư cách các mục tử thật. Sự quan tâm đến tất cả các Giáo Hội cũng thuộc nhiệm vụ của các ngài, cùng với và dưới quyền Giám mục Rô-ma.

940. “Vì tính chất riêng của bậc giáo dân là sống giữa trần gian và giữa các công việc trần thế, nên họ được Thiên Chúa kêu gọi, để, một khi nhiệt thành theo tinh thần Ki-tô Giáo, họ thực thi việc tông đồ của mình trong trần gian như men trong bột.”502

941. Các giáo dân tham dự vào chức tư tế của Đức Ki-tô: một khi luôn được kết hợp hơn với Người, họ triển khai ân sủng của bí tích Rửa Tội và Thêm Sức trong mọi phương diện của đời sống cá vị, gia đình, xã hội và Hội Thánh, và như vậy, họ thực hiện ơn gọi nên thánh dành cho tất cả những người đã được rửa tội.

942. Các giáo dân, vì sứ vụ ngôn sứ của mình, “cũng được kêu gọi để làm chứng cho Đức Ki-tô trong mọi sự, giữa lòng cộng đồng nhân loại.”503

943. Các giáo dân, vì sứ vụ vương đế của mình, nhờ sự từ bỏ mình và sự thánh thiện của đời sống, có thể nhổ tận gốc quyền thống trị của tội lỗi trong chính bản thân mình và trong trần gian.504

944. Đời sống thánh hiến cho Thiên Chúa có đặc điểm là công khai tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm về khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục trong một bậc sống bền vững được Hội Thánh công nhận.

945. Người đã được Phép Rửa dành riêng cho Thiên Chúa, nay hiến thân cho Ngài là Đấng đáng mến trên hết mọi sự, trong bậc sống của đời sống thánh hiến, người đó cố gắng để, một cách mật thiết hơn, dâng mình cho việc phục vụ Thiên Chúa và dấn thân mưu ích cho toàn thể Hội Thánh.


Chú thích

393 Bộ Giáo Luật, điều 204,1; x. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 31: AAS 57 (1965) 37-38.

394 Bộ Giáo Luật, điều 208; x. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 32: AAS 57 (1965) 38-39.

395 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 2: AAS 58 (1966) 838-839.

396 Bộ Giáo Luật, điều 207,2.

397 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 18: AAS 57 (1965) 21-22.

398 X. Rm 1,1.

399 X. 1 Cr 9,19.

400 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 5: AAS 58 (1966) 951.

401 X. Ga 17,21-23.

402 X. Mt 4,19.21; Ga 1,43.

403 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 19: AAS 57 (1965) 22.

404 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 22: AAS 57 (1965) 25; x. Bộ Giáo Luật, điều 330.

405 X. Mt 16,18-19.

406 X. Ga 21,15-17.

407 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 22: AAS 57 (1965) 26.

408 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 27.

409 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 22: AAS 57 (1965) 26; x. Id., Sắc lệnh Christus Dominus, 2: AAS 58 (1966) 673; Ibid., 9: AAS 58 (1966) 676.

410 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 22: AAS 57 (1965) 26; x. Bộ Giáo Luật, điều 336.

411 Bộ Giáo Luật, điều 337,1.

412 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 22: AAS 57 (1965) 27.

413 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 22: AAS 57 (1965) 26.

414 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 27.

415 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 27.

416 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Christus Dominus, 3: AAS 58 (1966) 674.

417 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 28.

418 X. Gl 2,10.

419 X. Canones Apostolorum, 34 [Constitutiones apostolicae, 8, 47, 34]: SC 336,284 (Funk, Didascalia et Constitutiones Apostolorum, 1, 572-574).

420 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 29.

421 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 4: AAS 58 (1966) 995.

422 X. Mt 16,15.

423 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 25: AAS 57 (1965) 29.

424 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16; x. Id., Hiến chế tín lý Dei Verbum, 10: AAS 58 (1966) 822.

425 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 25: AAS 57 (1965) 30; x. CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Pastor aeternus, c. 4: DS 3074.

426 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 10: AAS 58 (1966) 822.

427 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 25: AAS 57 (1965) 30.

428 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 25: AAS 57 (1965) 30.

429 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 25: AAS 57 (1965) 29-30.

430 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 26: AAS 57 (1965) 31.

431 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 26: AAS 57 (1965) 32.

432 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 27: AAS 57 (1965) 32.

433 X. Lc 22,26-27.

434 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 27: AAS 57 (1965) 32.

435 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 27: AAS 57 (1965) 33.

436 X. Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Smyrnaeos, 8, 1: SC 10bis, 138 (Funk 1,282).

437 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 31: AAS 57 (1965) 37.

438 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 31: AAS 57 (1965) 37-38.

439 ĐGH Pi-ô XII, Allocutio ad Patres Cardinales recenter creatos (20-2-1946): AAS 38 (1946) 149; trích dẫn bởi ĐGH Gio-an-Phao-lô II, Tông huấn Christifideles laici, 9: AAS 81 (1989) 406.

440 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 33: AAS 57 (1965) 39.

441 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 34: AAS 57 (1965) 40; x. Ibid., 10: AAS 57 (1965) 14-15.

442 Bộ Giáo Luật, điều 835,4.

443 X. Bộ Giáo Luật, điều 230,1.

444 Bộ Giáo Luật, điều 230,3.

445 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 35: AAS 57 (1965) 40.

446 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 71, a. 4, ad 3: Ed. Leon. 12, 124.

447 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 35: AAS 57 (1965) 40.

448 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 6: AAS 58 (1966) 843; x. Id., Sắc lệnh Ad Gentes, 15: AAS 58 (1966) 965.

449 X. Bộ Giáo Luật, các điều 774.776.780.

450 X. Bộ Giáo Luật, điều 229.

451 X. Bộ Giáo Luật, điều 822,3.

452 Bộ Giáo Luật, điều 212,3.

453 X. Pl 2,8-9.

454 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 36: AAS 57 (1965) 41.

455 Thánh Ambrôsiô, Expositio psalmi CXVIII, 14, 30: CSEL 62,318 (PL 15,1476).

456 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 36: AAS 57 (1965) 42.

457 ĐGH Phao-lô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi, 73: AAS 68 (1976) 61.

458 Bộ Giáo Luật, điều 129,2.

459 X. Bộ Giáo Luật, điều 443,4.

460 X. Bộ Giáo Luật, điều 463,1-2.

461 X. Bộ Giáo Luật, các điều 511.512.536.

462 X. Bộ Giáo Luật, điều 517,2.

463 X. Bộ Giáo Luật, các điều 492,1.537.

464 X. Bộ Giáo Luật, điều 1421,2.

465 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 36: AAS 57 (1965) 42.

466 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 33: AAS 57 (1965) 39.

467 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 44: AAS 57 (1965) 51.

468 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 42-43: AAS 57 (1965) 47-50; Id., Sắc lệnh Perfectae caritatis, 1: AAS 58 (1966) 702-703.

469 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Perfectae caritatis, 5: AAS 58 (1966) 704-705.

470 X. Bộ Giáo Luật, điều 573.

471 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 43: AAS 57 (1965) 49.

472 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Perfectae caritatis, 1: AAS 58 (1966) 702.

473 X. Bộ Giáo Luật, điều 605.

474 Bộ Giáo Luật, điều 603,1.

475 X. 1 Cr 7,34-36.

476 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Vita consecrata, 7: AAS 88 (1996) 382.

477 Bộ Giáo Luật, điều 604,1.

478 Nghi thức Thánh hiến các Trinh nữ, Praenotanda, 1, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 7.

479 X. Bộ Giáo Luật, điều 604,1.

480 X. Nghi thức Thánh hiến Trinh nữ, Praenotanda,2, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 7.

481 X. Bộ Giáo Luật, điều 604,2.

482 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 15: AAS 57 (1965) 102.

483 X. Bộ Giáo Luật, điều 573.

484 X. Bộ Giáo Luật, điều 607.

485 X. Bộ Giáo Luật, điều 591.

486 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Christus Dominus, 33-35: AAS 58 (1966) 690-692.

487 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 18: AAS 58 (1966) 968-969; Ibid., 40: AAS 58 (1966) 987-988.

488 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 69: AAS 83 (1991) 317.

489 Bộ Giáo Luật, điều 710.

490 ĐGH Pi-ô XII, Tông hiến ProvidaMater: AAS 39 (1947) 118.

491 Bộ Giáo Luật, điều 713,2.

492 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Perfectae caritatis, 11: AAS 58 (1966) 707.

493 X. Bộ Giáo Luật, điều 713.

494 Bộ Giáo Luật, điều 713,1-2.

495 Bộ Giáo Luật, điều 783; x. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio, 69: AAS 83 (1991) 317-318.

496 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 31: AAS 57 (1965) 37.

497 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 44: AAS 57 (1965) 50-51.

498 X. Bộ Giáo Luật, điều 207,1-2.

499 X. Bộ Giáo Luật, điều 331.

500 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Christus Dominus, 2: AAS 58 (1966) 673.

501 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 27.

502 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 2: AAS 58 (1966) 839.

503 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 43: AAS 58 (1966) 1063.

504 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 36: AAS 57 (1965) 41.

 

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

946. 823

Sau khi tuyên xưng: “Hội Thánh hằng có ở khắp thế này”, tín biểu các Tông Đồ thêm: “Các Thánh thông công.” Một cách nào đó, mục này là lời giải thích cho mục trước: “Hội Thánh là gì, nếu không phải là cộng đoàn của tất cả các Thánh?.”505 Quả thật, Hội Thánh là sự hiệp thông của các Thánh.

947. 790

“Bởi vì tất cả các tín hữu là một thân thể duy nhất, nên điều thiện hảo của người này được truyền thông cho người khác… Bởi đó, giữa những điều khác,… phải tin là có sự truyền thông những điều thiện hảo trong Hội Thánh. Thành phần chủ yếu là Đức Ki-tô, bởi vì Người là Đầu… Do đó, điều thiện hảo của Đức Ki-tô được truyền thông… cho tất cả các chi thể; và sự truyền thông này được thực hiện qua các bí tích của Hội Thánh.”506 “Thật vậy, Thần Khí duy nhất điều khiển Hội Thánh làm cho bất cứ điều gì được thu thập trong Hội Thánh, đều là của chung.”507

948. 1331

Vì vậy, thuật ngữ “các Thánh thông công” có hai nghĩa: “hiệp thông trong các thực tại thánh (sancta)” và “hiệp thông giữa những người thánh (sancti).”

Sancta sanctis! (Các thực tại thánh cho những người thánh)” là lời chủ tế xướng lên trong nhiều phụng vụ Đông phương, lúc nâng cao Mình Máu Thánh trước khi cho rước lễ. Các Ki-tô hữu (sancti) được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Đức Ki-tô (sancta) để tăng trưởng trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần (Koinônia) và truyền thông sự hiệp thông đó cho trần gian.

I. Hiệp thông của cải thiêng liêng (949-953)

949. 185

Trong cộng đoàn tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem, các môn đệ “chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Sự hiệp thông trong đức tin. Đức tin của các tín hữu là đức tin của Hội Thánh, được đón nhận từ các Tông Đồ, là kho tàng của sự sống, một kho tàng khi được truyền thông thì lại thêm phong phú.

950. 1130, 1331

Sự hiệp thông các bí tích. “Quả vậy, hoa trái của tất cả các bí tích thuộc về hết mọi tín hữu; nhờ các bí tích này, giống như nhờ những mối dây thánh thiêng, họ được gắn liền và kết hợp với Đức Ki-tô, nhất là nhờ bí tích Rửa Tội, qua đó, như qua một cái cửa, họ tiến vào Hội Thánh. Các Giáo phụ giải thích rằng, ‘các Thánh thông công’ trong Tín biểu phải được hiểu là sự hiệp thông các bí tích… Danh xưng [hiệp thông] này phù hợp với tất cả các bí tích, vì tất cả đều kết hợp chúng ta với Thiên Chúa…; tuy nhiên, danh xưng ấy thích hợp hơn cho bí tích Thánh Thể, là bí tích thực hiện sự hiệp thông này.”508

951. 799

Sự hiệp thông các đặc sủng: Trong sự hiệp thông của Hội Thánh, Chúa Thánh Thần “ban phát các ân sủng đặc biệt cho các tín hữu thuộc mọi bậc sống” để xây dựng Hội Thánh.509 “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12,7).

952. 2402

“Đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32): “Ki-tô hữu thật sự không sở hữu một điều gì, mà không cho rằng đó là của chung cho mình cùng với tất cả những người khác; vì vậy, họ phải mau mắn và sẵn sàng làm nhẹ bớt sự cùng khốn của những người túng thiếu.”510 Ki-tô hữu là người quản lý tài sản của Chúa.511

953. 1827, 2011, 845, 1469

Sự hiệp thông đức mến: Trong mầu nhiệm các Thánh thông công, “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình” (Rm 14,7). “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau; Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. Vậy anh em, anh em là Thân Thể của Đức Ki-tô và mỗi người là một bộ phận” (1 Cr 12,26-27). Đức mến “không tìm tư lợi” (1 Cr 13,5).512 Việc nhỏ nhất trong các hành vi của chúng ta được làm trong đức mến đều sinh lợi ích cho mọi người, trong sự liên đới hỗ tương với tất cả mọi người, kẻ sống và kẻ chết, sự liên đới đó được đặt nền trong mầu nhiệm “các Thánh thông công.” Mọi tội lỗi đều làm tổn thương sự hiệp thông này.

II. Sự hiệp thông giữa Hội Thánh thiên quốc và Hội Thánh trần thế (954-959)

954. 771, 1031, 1023

Ba tình trạng của Hội Thánh. “Cho tới khi Chúa ngự đến trong sự uy nghi của Người, có tất cả các Thiên thần với Người, và khi sự chết đã bị hủy diệt, mọi sự đều quy phục Người, thì trong số các môn đệ của Chúa, có những người đang tiếp tục cuộc lữ hành trên trần thế, có những người đã hoàn tất cuộc sống đời này và đang được thanh luyện, lại có những người đã được hiển vinh, đang chiêm ngưỡng ‘cách tỏ tường chính Thiên Chúa Tam Vị Nhất Thể, như Ngài là’”:513

“Tuy nhiên, tất cả chúng ta, theo mức độ và cách thức khác nhau, đều hiệp thông trong cùng một đức mến đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận, và cùng hát lên bài ca chúc tụng vinh quang Thiên Chúa chúng ta. Thật vậy, tất cả những ai thuộc về Đức Ki-tô, có Thần Khí của Người, đều họp thành một Hội Thánh duy nhất và liên kết với nhau trong Người.”514

Bài này đã được xem 5673 lần!

Pages ( 35 of 96 ): <1 ... 3334 35 3637 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]