“Trong mọi hành động và suy nghĩ, con phải xử sự như con sắp chết tức thì. Nếu con có lương tâm tốt lành, con sẽ không quá sợ sự chết. Xa lánh tội lỗi thì tốt hơn là trốn tránh sự chết. Nếu hôm nay con không sẵn sàng, thì làm sao ngày mai con sẵn sàng được?”599
“Lạy Chúa, chúc tụng Chúa vì chị chết thể xác,
không người nào sống mà có thể thoát được chị.
Khốn cho những ai chết trong những tội trọng;
phúc cho những ai, mà chị gặp, đang ở trong thánh ý Chúa,
bởi vì cái chết thứ hai sẽ không làm gì hại cho họ.”600
Tóm lược (1015-1019)
1015. “Thân xác là then chốt của ơn cứu độ.”601 Chúng ta tin vào Thiên Chúa, Đấng tạo dựng thân xác. Chúng ta tin vào Ngôi Lời đã trở nên xác phàm để cứu chuộc thân xác. Chúng ta tin “xác loài người ngày sau sống lại”, là tột đỉnh của công trình tạo dựng và cứu chuộc thân xác.
1016. Do sự chết, linh hồn bị tách biệt khỏi thân xác, nhưng khi phục sinh, Thiên Chúa sẽ trả lại sự sống bất hoại cho thân xác đã được biến đổi của chúng ta, Ngài lại kết hợp nó với linh hồn chúng ta. Cũng như Đức Ki-tô đã phục sinh và sống muôn đời, tất cả chúng ta sẽ sống lại trong ngày sau hết.
1017. “Chúng ta tin… sự phục sinh thật của thân xác này, mà giờ đây chúng ta đang mang.”602 Tuy nhiên, được gieo xuống mồ là thân xác hư hoại, phục sinh là thân xác bất hoại,603 “thân xác có thần khí” (1 Cr 15,44).
1018. Do hậu quả của tội tổ tông, con người phải chịu chết về phần xác, “mà lẽ ra con người đã thoát khỏi nếu đã không phạm tội.”604
1019. Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, đã tự nguyện chịu chết vì chúng ta trong sự suy phục thánh ý Thiên Chúa, Cha của Người, một cách trọn vẹn và tự nguyện. Bằng cái chết của Người, Người đã chiến thắng sự chết, và như vậy, mở ra cho tất cả mọi người khả năng được cứu độ.
Chú thích
558 X. Ga 6,39-40.
559 X. 1 Tx 4,14; 1 Cr 6,14; 2 Cr 4,14; Pl 3,10-11.
560 X. St 6,3; Tv 56,5; Is 40,6.
561 Tertullianô, De resurrectione mortuorum 1, 1: CCL 2,921 (PL 2,841).
562 X. 2 Mcb 7,29; Đn 12,1-13.
563 X. Cv 23,6.
564 X. Ga 11,24.
565 X. Ga 5,24-25; 6,40.
566 X. Ga 6,54.
567 X. Mc 5,21-43; Lc 7,11-17; Ga 11.
568 X. Mt 12,39.
569 X. Ga 2,19-22.
570 X. Mc 10,34.
571 X. Cv 4,33.
572 X. Cv 17,32; 1 Cr 15,12-13.
573 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 88, 2, 5: CCL 39,1237 (PL 37,1134).
574 X. Đn 12,2.
575 CĐ La-tê-ra-nô IV, Cap. 1, De fide catholica: DS 801.
576 X. Pl 3,21.
577 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 18, 5: SC 100,610-612 (PG 7,1028-1029).
578 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 54.
579 X. Pl 3,20.
580 X. Pl 1,23.
581 X. ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 28: AAS 60 (1968) 444.
582 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 18: AAS 58 (1966) 1038.
583 X. St 2,17.
584 X. Rm 6,3-9; Pl 3,10-11.
585 X. St 2,17; 3,3.19; Kn 1,13; Rm 5,12; 6,23.
586 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, canon 1: DS 1511.
587 X. Kn 2,23-24.
588 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 18: AAS 58 (1966) 1038.
589 X. Mc 14,33-34; Dt 5,7-8.
590 X. Rm 5,19-21.
591 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Romanos, 6, 1-2: SC 10bis 114 (Funk 1,258-260).
592 X. Lc 23,26.
593 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Romanos, 7, 2: SC 10bis 116 (Funk 1,260).
594 Thánh Tê-rê-sa Giê-su, Poesía 7: Biblioteca Mística Carmelitana, v.6 (Burgos 1919) 86.
595 Thánh Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su, Lettre (9-6-1897): Correspondance Générale, v. 2 (Paris 1973) 1015.
596 X. 1 Tx 4,13-14.
597 Kinh Tiền Tụng I cầu cho các tín hữu đã qua đời: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 439.
598 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 54.
599 De imitatione Christi, 1, 23, 5-8: ed. T. Lupo (Città del Vaticano 1982) 70.
600 Thánh Phan-xi-cô Assisi, Canticum Fratris Solis: Opuscula sancti Patris Francisci Assisiensis, ed. C. Esser (Grottaferrata 1978) 85-86.
601 Tertullianô, De resurrectione mortuorum, 8, 2: CCL 2,931 (PL 2,852).
602 CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi imperatoris: DS 854.
603 X. 1 Cr 15,42.
604 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 18: AAS 58 (1966) 1038.
Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)
1020. 2677, 336, 1523-1525
Ki-tô hữu nào kết hợp sự chết riêng của mình với sự chết của Chúa Giê-su, thì coi sự chết như việc đến với Chúa và đi vào sự sống muôn đời. Khi Hội Thánh, lần cuối cùng, đọc lời xá giải của Đức Ki-tô để tha thứ cho Ki-tô hữu hấp hối, xức dầu ban sức mạnh và trao Chúa Ki-tô là của ăn đàng như lương thực cho cuộc hành trình, Hội Thánh dịu dàng trấn an người ấy:
“Hỡi linh hồn Ki-tô hữu, hãy ra đi khỏi trần gian này,
nhân danh Chúa Cha toàn năng,
Đấng đã tạo dựng nên con,
nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô,
Con Thiên Chúa hằng sống,
Đấng đã chịu khổ hình vì con,
nhân danh Chúa Thánh Thần,
Đấng đã được tuôn đổ trên con;
hôm nay xin cho con được bình an đến chỗ của con
và nơi lưu ngụ của con bên Thiên Chúa trong thành thánh Xi-on,
cùng với Đức thánh Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa,
với thánh Giu-se, với tất cả các Thiên thần và các Thánh của Thiên Chúa…
Xin cho con được trở về cùng Đấng đã lấy bùn đất tạo dựng nên con.
Khi con lìa bỏ đời này, xin thánh Ma-ri-a, các Thiên thần và toàn thể các Thánh đón tiếp con…
Xin cho con được nhìn thấy mặt giáp mặt Đấng Cứu Chuộc con và con được chiêm ngưỡng Thiên Chúa đến muôn đời.”605
I. Phán xét riêng (1021-1022)
1021. 679
Sự chết kết thúc đời sống con người, xét như quãng thời gian mở ngỏ để đón nhận hay khước từ ân sủng của Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Ki-tô.606 Tân Ước nói về sự phán xét chủ yếu trong viễn tượng một cuộc gặp gỡ sau cùng với Đức Ki-tô khi Người ngự đến lần thứ hai, nhưng cũng nhiều lần khẳng định sự thưởng phạt mỗi người ngay sau khi họ chết, tùy theo công việc và đức tin của họ. Dụ ngôn về người nghèo khó Lazarô,607 và lời Đức Ki-tô trên thập giá nói với người trộm lành,608 cũng như những bản văn khác trong Tân Ước609 nói đến số phận cuối cùng của linh hồn,610 một số phận có thể khác nhau giữa người này với người khác.
1022. 393, 1470
Mỗi người, ngay sau khi chết, lãnh nhận trong linh hồn bất tử của mình sự trả công muôn đời cho mình trong một cuộc phán xét riêng, cuộc phán xét đó quy chiếu đời sống họ với Đức Ki-tô để hoặc họ phải trải qua việc thanh luyện,611 hoặc họ lập tức được vào hưởng vinh phúc trên trời612 hoặc họ lập tức bị luận phạt muôn đời.613
“Vào lúc đời xế bóng, bạn sẽ bị xét xử về tình yêu.”614
II. Thiên Đàng (1023-1029)
1023. 954
Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa, và những ai đã được thanh luyện trọn vẹn, thì được sống muôn đời với Đức Ki-tô. Muôn đời họ sẽ giống như Thiên Chúa, bởi vì họ thấy Ngài “như Ngài là” (1 Ga 3,2), “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12):615
“Bằng thẩm quyền tông đồ, chúng tôi định tín rằng: Theo sự an bài chung của Thiên Chúa, từ sau cuộc Thăng thiên của Đấng Cứu Độ chúng ta là Chúa Giê-su Ki-tô, linh hồn của tất cả các Thánh… và của mọi Ki-tô hữu đã chết sau khi lãnh nhận Phép Rửa thánh thiêng của Đức Ki-tô, nếu họ không có gì phải thanh luyện, sau khi họ chết,… hoặc nếu lúc đó nơi họ đã hoặc sẽ có gì phải thanh luyện, mà đã thanh luyện xong sau khi chết… thì ngay cả trước khi họ đảm nhận lại thân xác của mình và trước cuộc phán xét chung, các linh hồn này đã, đang và sẽ được ở trên trời, trên Nước Trời và trên Thiên Đàng cùng với Đức Ki-tô, được nhập đoàn các thánh Thiên thần, và sau cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giê-su Ki-tô, các linh hồn này đã và đang được xem thấy bản tính thần linh bằng sự hưởng kiến trực tiếp và giáp mặt, không qua trung gian một thụ tạo nào.”616
1024. 260, 326, 2794, 1718
Đời sống trọn hảo này với Ba Ngôi Chí Thánh, việc hiệp thông sự sống với Ngài, với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, với các Thiên thần và tất cả các Thánh, được gọi là “thiên đàng.” Thiên đàng là mục đích tối hậu và là sự hoàn thành các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng vinh phúc tuyệt hảo và vĩnh viễn.
1025. 1011
Sống trên thiên đàng là “ở với Đức Ki-tô.”617 Những người được tuyển chọn sống “trong Người”, nhưng ở đó họ vẫn giữ, thậm chí họ tìm được, căn tính riêng của mình, danh xưng riêng của mình.618
“Quả vậy, sự sống là được ở với Đức Ki-tô, bởi vì ở đâu có Đức Ki-tô, ở đó là Nước Trời.”619
1026. 793
Chúa Giê-su Ki-tô, nhờ sự chết và sự sống lại của Người, đã “mở cửa” thiên đàng cho chúng ta. Sự sống của các Thánh cốt tại việc sở hữu sung mãn các hoa trái của ơn Cứu Chuộc mà Đức Ki-tô đã hoàn thành, Người là Đấng kết hợp vào vinh quang thiên quốc của Người những ai đã tin vào Người và đã trung thành với thánh ý Người. Thiên Đàng là cộng đồng vinh phúc của tất cả những người đã được tháp nhập trọn vẹn vào Đức Ki-tô.
1027. 959, 1720
Mầu nhiệm hiệp thông vinh phúc với Thiên Chúa và với tất cả những người ở trong Đức Ki-tô, vượt quá mọi hiểu biết và mọi trình bày. Thánh Kinh nói với chúng ta về mầu nhiệm này bằng các hình ảnh: sự sống, ánh sáng, sự bình an, tiệc cưới, rượu Nước Trời, nhà Cha, thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc, thiên đàng: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Ngài” (1 Cr 2,9).
1028. 1722, 163
Thiên Chúa, vì sự siêu việt của Ngài, không ai có thể trông thấy Ngài như Ngài là, nếu chính Ngài không mở mầu nhiệm của Ngài cho con người chiêm ngưỡng trực tiếp, và nếu chính Ngài không ban cho con người khả năng đó. Việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa như vậy trong vinh quang thiên quốc của Ngài, được Hội Thánh gọi là “sự hưởng kiến vinh phúc” (visio beatifica):
“Bạn sẽ vinh quang và hạnh phúc biết bao vì được phép nhìn thấy Chúa, được hân hạnh hưởng niềm vui cứu độ và ánh sáng vĩnh cửu cùng với Chúa Ki-tô, Thiên Chúa của bạn,… bạn sẽ hưởng niềm vui của sự bất tử cùng với những người công chính và các bạn hữu của Thiên Chúa trong Nước Trời.”620
1029. 956, 668
Trong vinh quang trên trời, các Thánh vẫn tiếp tục thi hành thánh ý của Thiên Chúa một cách hân hoan đối với những người khác và đối với toàn thể các thụ tạo. Các ngài đã hiển trị cùng với Đức Ki-tô; cùng với Người, các ngài “sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời” (Kh 22,5).621
III. Sự thanh luyện cuối cùng hoặc Luyện ngục (1030-1032)
1030. Những người chết trong ân sủng và tình thân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, thì tuy họ chắc chắn sẽ được cứu độ muôn đời, họ còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào hưởng niềm vui thiên đàng.
1031. 954, 1472
Hội Thánh gọi sự thanh luyện cuối cùng này của những người được chọn là Luyện ngục, sự thanh luyện này khác hẳn với hình phạt của những kẻ bị luận phạt. Hội Thánh công bố đạo lý đức tin liên quan đến luyện ngục, chủ yếu trong các Công đồng Florentinô622 và Tri-đen-ti-nô.623 Truyền thống của Hội Thánh, dựa trên một số bản văn của Thánh Kinh,624 nói đến lửa thanh luyện:
“Đối với một số tội nhẹ, phải tin là trước phán xét chung có lửa thanh luyện, theo điều Đấng là Chân lý đã nói rằng nếu ai nói phạm đến Chúa Thánh Thần, người đó sẽ chẳng được tha cả đời này lẫn đời sau (Mt 12,32). Trong lời đó, chúng ta có thể hiểu là một số tội có thể được tha ở đời này, còn một số tội có thể được tha ở đời sau.”625
1032. 958, 1371, 1479
Đạo lý này cũng dựa trên tập quán cầu nguyện cho những người quá cố, điều này đã được Thánh Kinh nói đến: “Bởi đó ông Giu-đa Ma-ca-bê đã dâng hy lễ đền tội cho những người quá cố, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,46). Ngay những thời đầu, Hội Thánh vẫn kính nhớ người quá cố và dâng lời cầu nguyện cho họ, nhất là dâng Hy lễ Thánh Thể,626 để một khi đã được thanh luyện họ có thể được vinh phúc hưởng kiến Thiên Chúa. Hội Thánh cũng khuyên làm việc bố thí, hưởng các ân xá và làm các việc đền tạ để cầu cho những người đã qua đời:
“Vậy chúng ta hãy giúp đỡ họ và hãy nhớ đến họ. Nếu hy lễ của ông Gióp đã đền được tội cho các con ông:627 tại sao bạn lại hồ nghi, là liệu những lễ tế chúng ta dâng lên để cầu cho người quá cố có đem đến cho họ một an ủi nào không?… Chúng ta đừng ngần ngại giúp đỡ những người đã qua đời, và dâng lời cầu nguyện cho họ.”628
IV. Hỏa ngục (1033-1037)
1033. 1861, 393, 633
Chúng ta không thể được kết hợp với Thiên Chúa, nếu chúng ta không tự nguyện yêu mến Ngài. Nhưng chúng ta không thể yêu mến Ngài, nếu chúng ta phạm tội trọng chống lại Ngài, chống lại người lân cận của chúng ta hoặc chống lại chính chúng ta: “Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân, và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3,15). Chúa chúng ta cảnh cáo rằng chúng ta sẽ bị tách biệt khỏi Người, nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết của người nghèo và những người bé mọn, là các anh em của Người.629 Chết trong tội trọng mà chúng ta không thống hối và không đón nhận tình yêu thương xót của Thiên Chúa, có nghĩa là chúng ta bị tách biệt khỏi Ngài đến muôn đời, vì sự chọn lựa tự do riêng của chúng ta. Tình trạng chính mình tự loại trừ mình cách vĩnh viễn như vậy (“autoexclusio”) khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa và với các Thánh, được gọi bằng từ “hỏa ngục.”
1034. Chúa Giê-su thường nói về lửa không hề tắt của “hỏa ngục”,630 dành cho những ai cho đến chết vẫn không tin và không chịu hối cải, ở đó cả linh hồn và thân xác có thể bị hư mất.631 Chúa Giê-su dùng những lời nghiêm khắc loan báo: “Con Người sẽ sai các Thiên thần của Người tập trung… mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, rồi quăng chúng vào lò lửa” (Mt 13,41-42), và chính Người sẽ công bố lời kết án: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời!” (Mt 25,41).
1035. 393
Đạo lý của Hội Thánh khẳng định có hỏa ngục và tính vĩnh cửu của hỏa ngục. Linh hồn của những kẻ chết trong tình trạng tội lỗi, ngay sau khi chết, sẽ xuống chịu hình phạt hỏa ngục, chịu “lửa muôn đời.”632 Hình phạt chủ yếu của hỏa ngục cốt tại việc muôn đời bị tách biệt khỏi Thiên Chúa, Đấng mà chỉ nơi Ngài con người mới có thể có sự sống và sự vinh phúc, là những mục đích của việc con người được tạo dựng, và là những điều con người hằng khát vọng.
1036. 1734, 1428
Những khẳng định của Thánh Kinh và đạo lý của Hội Thánh về hỏa ngục là lời kêu gọi lãnh trách nhiệm qua đó con người phải sử dụng sự tự do của mình liên quan đến số phận muôn đời của mình. Đồng thời là lời kêu gọi khẩn thiết phải hối cải: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó; còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14):
“Vì chúng ta không biết ngày và giờ, nên theo lời Chúa dạy, chúng ta luôn phải tỉnh thức, để, khi dòng đời độc nhất của sự sống trần thế của chúng ta chấm dứt, chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Người và được liệt kê vào số người được chúc phúc (x. Mt 25,31-46), kẻo cũng như những tôi tớ xấu xa và lười biếng (x. Mt 25,26) chúng ta được lệnh phải vào lửa muôn đời (x. Mt 25,41), vào chốn tối tăm bên ngoài, nơi khóc lóc và nghiến răng.”633
1037. 162, 1014, 1821, 678-679
Thiên Chúa không tiền định cho ai xuống hỏa ngục;634 điều này đòi sự tự ý thù ghét Thiên Chúa (tội trọng) và cố chấp trong tình trạng đó đến cùng. Hội Thánh, trong phụng vụ Thánh Thể và trong kinh nguyện hằng ngày của các tín hữu, khẩn cầu lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng không muốn “cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải” (2 Pr 3,9):
“Vì vậy, lạy Chúa, xin vui lòng chấp nhận lễ vật của chúng con là tôi tớ Chúa,
và của toàn thể gia đình Chúa…
Xin an bài cho đời chúng con được sống trong bình an của Chúa,
cứu chúng con thoát khỏi án phạt đời đời
và nhận chúng con vào đoàn những người Chúa chọn.”635
V. Phán xét cuối cùng (1038-1041)
1038. 1001, 998
Việc phục sinh của tất cả mọi người đã chết, “người lành và kẻ dữ” (Cv 24,15), đi trước cuộc Phán Xét cuối cùng. Đó sẽ là “giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng… Con Người và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,28-29). Lúc đó Đức Ki-tô sẽ đến “trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu… Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người; và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê, Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái… Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25,31.32.46).
1039. 678
Đối diện với Đức Ki-tô, Đấng là Chân lý, chân lý về mối tương quan của từng người với Thiên Chúa sẽ được biểu lộ một cách vĩnh viễn.636 Việc Phán Xét cuối cùng sẽ mặc khải, đến tận những hậu quả cuối cùng của nó, điều thiện hảo mà mỗi người đã làm, hoặc đã bỏ không làm, trong suốt đời sống trần thế của họ:
“Bất cứ điều gì những kẻ dữ làm, đều bị ghi lại, mà họ không biết, khi ‘Thiên Chúa ta ngự đến, Ngài không nín lặng’ (Tv 50,3)… Rồi Ngài quay sang những kẻ ở bên trái và nói: Ta đã đặt những người nghèo khó bé mọn của Ta trên trần thế cho các ngươi. Ta như là Đầu, Ta đang ngự bên hữu Chúa Cha trên trời, nhưng các chi thể của Ta nơi trần thế phải đau khổ, túng thiếu. Nếu các ngươi cho các chi thể của Ta bất cứ cái gì, thì cái đó đã lên tới Đầu. Các ngươi phải biết rằng, Ta đã đặt những người nghèo khó bé mọn của Ta cho các ngươi khi còn ở trần thế, Ta đặt họ làm những người phục vụ các ngươi để đem các việc làm của các ngươi vào kho tàng của Ta. Và các ngươi đã chẳng đặt gì vào tay họ, vì vậy các ngươi chẳng gặp được gì ở nơi Ta.”637
1040. 637, 314
Cuộc Phán Xét cuối cùng sẽ diễn ra khi Đức Ki-tô trở lại một cách vinh quang. Chỉ có Chúa Cha mới biết ngày giờ; chỉ một mình Ngài quyết định việc Ngự đến của Đức Ki-tô. Lúc đó, qua Con của Ngài là Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa Cha sẽ công bố phán quyết chung thẩm của Ngài về toàn thể lịch sử. Chúng ta sẽ nhận biết ý nghĩa tối hậu của toàn bộ công trình tạo dựng và của toàn bộ Nhiệm cục cứu độ và chúng ta sẽ hiểu những đường lối kỳ diệu qua đó sự quan phòng của Thiên Chúa đã dẫn đưa mọi sự đến mục đích tối hậu của chúng. Cuộc Phán Xét cuối cùng sẽ mặc khải đức công chính của Thiên Chúa chiến thắng mọi sự bất chính mà các thụ tạo của Ngài đã lỗi phạm, và tình yêu của Ngài mạnh hơn sự chết.638
Bài này đã được xem 5684 lần!