GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

1041. 1432

Sứ điệp của việc Phán Xét cuối cùng là kêu gọi hối cải, trong khi Thiên Chúa còn cho người ta “thời gian thuận tiện” và “ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Sứ điệp này gợi lên sự kính sợ thánh thiện đối với Thiên Chúa. Nó thúc đẩy người ta đến sự công chính của Nước Trời. Sứ điệp này loan báo “ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi” (Tt 2,13), tức là ngày trở lại của Chúa, Đấng sẽ đến “để được tôn vinh giữa các thần thánh của Người và được ngưỡng mộ giữa mọi kẻ đã tin” (2 Tx 1,10).

VI. Hy vọng Trời Mới Đất Mới (1042-1050) [2854]

1042. 769, 670, 310

Lúc cùng tận thời gian, Nước Thiên Chúa sẽ đạt tới sự viên mãn của mình. Sau cuộc Phán Xét chung, những người công chính, được tôn vinh cả xác cả hồn, sẽ hiển trị muôn đời với Đức Ki-tô, và chính toàn thể trần gian sẽ được đổi mới:

Lúc đó, Hội Thánh “sẽ được hoàn tất trong vinh quang thiên quốc, khi… cùng với nhân loại, cả toàn thể trần gian, được kết hợp mật thiết với con người và nhờ con người mà đạt tới mục đích của mình, cũng được canh tân trọn vẹn trong Đức Ki-tô”639

1043. 671, 280, 518

Thánh Kinh gọi sự canh tân huyền diệu này, nó sẽ biến đổi nhân loại và trần gian, là “trời mới đất mới” (2 Pr 3,13).640 Đó sẽ là sự hoàn thành chung cuộc kế hoạch của Thiên Chúa: “Quy tụ muôn loài trong trời đất… trong Đức Ki-tô” (Ep 1,10).

1044. Trong trần gian mới,641 trong thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc, Thiên Chúa sẽ có nơi cư ngự của Ngài giữa con người. “Ngài sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).642

1045. 775, 1404

Đối với con người, sự hoàn tất này sẽ là sự thực hiện vĩnh viễn việc hợp nhất nhân loại mà Thiên Chúa đã muốn từ tạo thiên lập địa, và Hội Thánh lữ hành đã “như là bí tích” của sự hợp nhất ấy.643 Những ai được kết hợp với Đức Ki-tô sẽ làm thành cộng đoàn những người được cứu chuộc, “Thành thánh” của Thiên Chúa (Kh 21,2), “Hiền thê của Con Chiên” (Kh 21,9). Cộng đoàn này sẽ không còn bị tổn thương bởi tội lỗi, bởi các điều ô uế,644 bởi tính ích kỷ từng hủy diệt hoặc làm tổn thương cộng đồng nhân loại nơi trần thế. Sự hưởng kiến vinh phúc (visio beatifica) trong đó Thiên Chúa tỏ mình ra cách vô tận cho những người được chọn, sẽ là nguồn mạch vĩnh cửu của vinh phúc, của bình an và của sự hiệp thông với nhau.

1046. 349

Đối với vũ trụ, Mặc khải khẳng định rằng nhân loại và vũ trụ vật chất có chung một vận mệnh sâu xa:

“Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Ngài… Vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát… Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng… khi trông đợi sự cứu chuộc thân xác chúng ta” (Rm 8,19-23).

1047. Vì vậy, vũ trụ hữu hình được tiền định để chính nó được biến đổi: “Chính nó phải được phục hồi như tình trạng ban đầu, không có trở ngại nào, mà phục vụ những người công chính”,645 trong khi tham dự vào sự tôn vinh họ trong Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh.

1048. 673

Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức vũ trụ sẽ biến đổi ra sao. Quả thật bộ mặt biến dạng vì tội lỗi của trần gian này sẽ qua đi, nhưng chúng ta được dạy rằng Thiên Chúa đã chuẩn bị một nơi lưu ngụ mới và một trần thế mới, trong đó sự công chính lưu ngụ, và vinh phúc của nó sẽ thỏa mãn và vượt quá mọi khát vọng về bình an, vốn đã trào lên trong trái tim con người.”646

1049. 2820

“Tuy nhiên, sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải khích động hơn sự quan tâm phát triển trái đất này, nơi mà thân thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và đã có khả năng đưa ra một nét phác họa nào đó của thời đại mới. Vì vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt sự tiến bộ trần thế với sự tăng trưởng Nước Đức Ki-tô, nhưng tiến bộ này trở thành rất quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ nó có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội nhân loại một cách tốt đẹp hơn.”647

1050. 1709, 260

“Thật vậy, sau khi chúng ta đã theo lệnh Chúa, và trong Thần Khí của Người, truyền bá khắp cõi đất những sự tốt lành của phẩm giá nhân loại, của sự hiệp thông huynh đệ và của sự tự do, nghĩa là tất cả những hoa trái tốt đẹp của bản tính và sự nghiệp của chúng ta, thì sau đó chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng trong tình trạng đã được thanh luyện khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và được biến hình, khi Đức Ki-tô trao lại cho Chúa Cha Nước vĩnh cửu và phổ quát.”648 Lúc đó, trong đời sống vĩnh cửu, Thiên Chúa “có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28):

“Sự sống thật và theo bản chất cốt tại điều này: Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, đổ tràn các hồng ân thiên quốc trên tất cả không trừ ai. Nhờ lòng thương xót của Ngài, cả chúng ta là những con người, chúng ta cũng đã lãnh nhận lời hứa vĩnh viễn là được sống muôn đời.”649

Tóm lược (1051-1060)

1051. Ngay sau khi qua đời, mỗi người trong linh hồn bất tử của mình, trong cuộc phán xét riêng, nhận lấy sự thưởng phạt muôn đời của mình từ nơi Đức Ki-tô, Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết.

1052. “Chúng tôi tin là linh hồn của tất cả những ai đã chết trong ơn nghĩa của Đức Ki-tô… đều là thành phần dân Thiên Chúa sau khi chết, cái chết sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt trong ngày phục sinh, ngày mà những linh hồn này được kết hợp với thân xác của mình.”650

1053. “Chúng tôi tin rằng đoàn ngũ đông đảo các linh hồn, được quy tụ với Chúa Giê-su và Đức Ma-ri-a trên thiên đàng, họp thành Hội Thánh thiên quốc, nơi các vị, khi hưởng vinh phúc vĩnh cửu, được thấy Thiên Chúa như Ngài là, và theo cấp độ và cách thức khác nhau, các vị cũng được dự phần với các Thánh Thiên thần vào quyền cai quản thần linh mà Đức Ki-tô vinh hiển đang thực thi, khi các vị chuyển cầu cho chúng ta và bằng sự quan tâm huynh đệ, các vị giúp đỡ rất nhiều cho sự yếu hèn của chúng ta.”651

1054. Những người chết trong ân sủng và tình thân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, thì tuy họ chắc chắn sẽ được cứu độ muôn đời, họ còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào hưởng niềm vui của Thiên Chúa.

1055. Do mầu nhiệm “các Thánh thông công”, Hội Thánh trao phó những người quá cố cho lòng thương xót của Thiên Chúa và dâng những lời cầu khẩn, nhất là dâng Hy lễ Thánh Thể cầu cho họ.

1056. Hội Thánh, theo gương Đức Ki-tô, luôn khuyến cáo các tín hữu về một thực tại đáng buồn và bi thảm là sự chết muôn đời652, còn được gọi là “hỏa ngục.”

1057. Hình phạt chủ yếu của hỏa ngục cốt tại việc muôn đời bị tách biệt khỏi Thiên Chúa, Đấng mà chỉ nơi Ngài con người mới có thể có sự sống và sự vinh phúc, là những mục đích của việc con người được tạo dựng, và là những điều con người hằng khát vọng.

1058. Hội Thánh cầu nguyện để không ai bị hư mất: “Lạy Chúa,… xin… đừng để con lìa xa Chúa bao giờ.”653 Nếu thật sự là không ai có thể tự cứu được mình, thì cũng thật sự là, Thiên Chúa muốn “cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4) và đối với Thiên Chúa, “mọi sự đều có thể được” (Mt 19,26).

1059. “Hội Thánh Rô-ma tin và tuyên xưng cách chắc chắn rằng,… vào ngày Phán xét chung, tất cả mọi người cùng với thân xác của mình, sẽ trình diện trước tòa án của Đức Ki-tô để trả lẽ về các hành vi của mình.”654

1060. Nước Thiên Chúa, lúc cùng tận thời gian, sẽ đạt tới sự viên mãn của mình. Lúc đó, những người công chính sẽ hiển trị muôn đời với Đức Ki-tô, bằng cả thân xác và linh hồn đã được tôn vinh, và chính toàn thể vũ trụ vật chất cũng sẽ được biến đổi. Lúc đó, trong cuộc sống vĩnh cửu, Thiên Chúa “có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28).


Chú thích

605 Ordo Unctionis infirmorum eorumque pastoralis curae, Ordo commendationis morientium, 146-147, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1972) 60-61.

606 X. 2 Tm 1,9-10.

607 X. Lc 16,22.

608 X. Lc 23,43.

609 X. 2 Cr 5,8; Pl 1,23; Dt 9,27; 12,23.

610 X. Mt 16,26.

611 X. CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi imperatoris: DS 856; CĐ Florentinô, Decretum pro Graecis: DS 1304; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 25a, Decretum de purgatorio: DS 1820.

612 X. CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi imperatoris: DS 857; ĐGH Gio-an XXII, Tông sắc Ne super his: DS 991; ĐGH Bê-nê-đích-tô XII, Hiến chế Beneditus Deus: DS 1000-1001; CĐ Florentinô, Decretum pro Graecis: DS 1305.

613 X. CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi imperatoris: DS 858; ĐGH Bê-nê-đích-tô XII, Hiến chế Benedictus Deus: DS 1002; CĐ Florentinô, Decretum pro Graecis: DS 1306.

614 Thánh Gio-an Thánh Giá, Avisos y sentencias, 57: Biblioteca Mística Carmelitana, v. 13 (Burgos 1931) 238.

615 X. Kh 22,4.

616 ĐGH Bê-nê-đích-tô XII, Hiến chế Benedictus Deus: DS 1000; x. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 49: AAS 57 (1965) 54.

617 X. Ga 14,3; Pl 1,23; 1 Tx 4,17.

618 X. Kh 2,17.

619 Thánh Ambrôsiô, Expositio evangelii secumdum Lucam, 10, 121: CCL 14,379 (PL 15,1927).

620 Thánh Cyprianô, Epistula 58, 10: CSEL 3/2, 665 (56, 10: PL 4,367-368).

621 X. Mt 25,21.23.

622 X. CĐ Florentinô, Decretum pro Graecis: DS 1304.

623 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 25a, Decretum de purgatorio: DS 1820; Sess. 6a, Decretum de iustificatione, canon 30: DS 1580.

624 Thí dụ: 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7.

625 Thánh Grêgôriô Cả, Dialogi, 4, 41, 3: SC 265,148 (4, 39; PL 77,396).

626 CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi imperatoris: DS 856.

627 X. G 1,5.

628 Thánh Gio-an Kim Khẩu, In epistulam I ad Corinthios homilia 41, 5: PG 61,361.

629 X. Mt 25,31-46.

630 X. Mt 5,22.29; 13,42.50; Mc 9,43-48.

631 X. Mt 10,28.

632 X. Symbolum Quicumque: DS 76; Synodus Constantinôpôlitana (năm 543), Anathematismi contra Origenem, 7: DS 409; Ibid., 9: DS 411; CĐ La-tê-ra-nô IV, Cap.1, De fide catholica: DS 801; CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi imperatoris: DS 858; ĐGH Bê-nê-đích-tô XII, Hiến chế Benedictus Deus: DS 1002; CĐ Florentinô, Decretum pro Iacobitis: DS 1351; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, canon 25: DS 1575; ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 12: AAS 60 (1968) 438.

633 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 54.

634 X. CĐ Arausicanô II, Conclusio: DS 397; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, canon 17: DS 1567.

635 Kinh Nguyện Thánh Thể I, hoặc Lễ Quy Rô-ma, 88Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 450.

636 X. Ga 12,48.

637 Thánh Augustinô, Sermo 18, 4, 4: CCL 41,247-249 (PL 38,130-131).

638 X. Dc 8,6.

639 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.

640 X. Kh 21,1.

641 X. Kh 21,5.

642 X. Kh 21,27.

643 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 1: AAS 57 (1965) 5.

644 X. Kh 21,27.

645 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 5, 32, 1: SC 153,398 (PG 7,1210).

646 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 39: AAS 58 (1966) 1056-1057.

647 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 39: AAS 58 (1966) 1057.

648 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 39: AAS 58 (1966) 1057; x. Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 5-6.

649 Thánh Cyrillô thành Giê-ru-sa-lem, Catecheses illuminandorum, 18, 29: Opera, v. 2, ed. J. Rupp (Monaci 1870) 332 (PG 33,1049).

650 ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 28: AAS 60 (1968) 444.

651 ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 29: AAS 60 (1968) 444.

652 X. Sacra Congregatio pro Clericis, Directorium catechisticum generale, 69: AAS 64 (1972) 141.

653 Lời nguyện trước Hiệp Lễ, 132: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 474.

654 CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi imperatoris: DS 859; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1549.

“Amen” (1061-1065)

1061. 2856

Tín biểu, cũng như quyển cuối cùng của Thánh Kinh,655 kết thúc bằng một từ Do-thái: A-men. Chúng ta thường gặp chính từ này ở cuối các kinh nguyện của Tân Ước. Cũng vậy, Hội Thánh cũng chấm dứt các kinh nguyện của mình bằng A-men.

1062. 214

Trong tiếng Do-thái, từ A-men có cùng ngữ căn với từ “tin.” Ngữ căn này diễn tả sự vững bền, sự đáng tin, sự trung tín. Như vậy, chúng ta hiểu tại sao từ “A-men” có thể được dùng để nói về sự trung tín của Thiên Chúa đối với chúng ta, và về lòng tin cậy của chúng ta vào Ngài.

1063. 215, 156

Trong sách tiên tri I-sai-a, chúng ta thấy có kiểu nói “Thiên Chúa chân thật”, sát chữ là “Thiên Chúa A-men”, nghĩa là, Thiên Chúa trung tín với các lời Ngài đã hứa: “Trong xứ, ai cầu phúc cho mình, sẽ nhân danh Thiên Chúa chân thật mà cầu phúc” (Is 65,16). Chúa chúng ta thường dùng từ “A-men”,656 đôi khi với hình thức lặp lại,657 để nhấn mạnh sự đáng tin của giáo huấn của Người, và quyền bính của Người dựa trên chân lý của Thiên Chúa.

1064. 197, 2101

Vì vậy, từ “A-men” ở cuối Tín biểu lặp lại và xác nhận thuật ngữ đầu tiên của Tín biểu: “Tôi tin.” Tin là thưa “A-men” đối với các lời, các lời hứa và các điều răn của Thiên Chúa, và là phó thác bản thân một cách tuyệt đối cho Đấng là “A-men” của tình yêu vô tận và của sự trung tín trọn vẹn. Vậy đời sống Ki-tô hữu mỗi ngày sẽ là “A-men” cho lời “Tôi tin” trong bản Tuyên xưng đức tin khi chúng ta lãnh nhận Phép Rửa:

“Tín biểu của bạn phải là như gương soi cho bạn. Hãy ngắm nhìn bạn trong đó, để xem bạn có tin tất cả những gì bạn tuyên xưng là bạn tin hay không, và hằng ngày hãy vui mừng trong đức tin của bạn.”658

1065. Chính Chúa Giê-su Ki-tô là “A-men” (Kh 3,14). Chính Người là “A-men” vĩnh viễn của tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. Chính Người đảm nhận và thực hiện “A-men” của chúng ta dâng lên Chúa Cha: “Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là ‘Có’ nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên ‘A-men’ để tôn vinh Thiên Chúa” (2 Cr 1,20):

“Chính nhờ Người, với Người, và trong Người,
mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa
là Cha toàn năng
trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
Amen.”
659


Chú thích

655 X. Kh 22,21.

656 X. Mt 6,2.5.16.

657 X. Ga 5,19.

658 Thánh Augustinô, Sermo 58, 11, 13: PL 38,399.

659 Vinh tụng ca kết thúc Kinh Nguyện Thánh Thể: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 455, 460, 464, et 471.

 

PHẦN THỨ HAI: CỬ HÀNH MẦU NHIỆM KI-TÔ GIÁO (1066-1690)

(có hình)

Bức bích họa trong hầm mộ các Thánh Marcellinus và Phê-rô, Rô-ma, từ đầu thế kỷ IV

Khung cảnh này mô tả cuộc gặp gỡ của Chúa Giê-su với người phụ nữ bị băng huyết. Người phụ nữ khổ sở nhiều năm này đã được chữa lành khi chạm vào áo choàng của Chúa Giê-su nhờ năng lực “phát xuất từ Người” (x. Mc 5,25-34).

Các bí tích của Hội Thánh giờ đây tiếp tục các công việc mà Chúa Ki-tô đã thực hiện trong cuộc đời trần thế của Người (x. §1115). Các bí tích giống như “năng lực phát xuất” từ Thân Thể Chúa Ki-tô để chữa lành những vết thương tội lỗi và ban cho chúng ta sự sống mới của Chúa Ki-tô (x. §1116).

Do đó, bức ảnh này tượng trưng cho năng lực thiêng liêng và quyền năng cứu độ của Con Thiên Chúa, Đấng chữa lành con người toàn diện, bao gồm linh hồn và thể xác, qua đời sống bí tích.


Tại sao có phụng vụ? (1066-1068)

1066. 50, 236

Trong Tín biểu, Hội Thánh tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và “thiên ý nhiệm mầu là kế hoạch yêu thương” (Ep 1,9) của Ngài đối với tất cả các thụ tạo: Chúa Cha hoàn tất “thiên ý nhiệm mầu” của Ngài khi ban Con yêu dấu và Thánh Thần Ngài để cứu độ trần gian và để tôn vinh Danh Ngài. Đó là mầu nhiệm của Đức Ki-tô1 được mặc khải và thực hiện trong lịch sử, theo một kế hoạch, một “sự an bài” được tổ chức cách khôn ngoan mà thánh Phao-lô gọi là “mầu nhiệm Thiên Chúa đã an bài” (Ep 3,9) và truyền thống giáo phụ gọi là “Nhiệm cục của Ngôi Lời Nhập Thể” hay “Nhiệm cục cứu độ.”

1067. 571

“Công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa cách trọn hảo này, đã được tiên báo trong Cựu Ước qua những công trình vĩ đại của Chúa, nay được Đức Ki-tô thực hiện, đặc biệt bằng mầu nhiệm Vượt Qua, nghĩa là bằng cuộc tử nạn hồng phúc, sự sống lại từ cõi chết và lên trời vinh hiển của Người; qua đó, ‘Người đã chết để tiêu diệt sự chết của chúng ta và sống lại để tái lập sự sống’. Chính từ cạnh sườn Đức Ki-tô an nghỉ trên thập giá mà bí tích kỳ diệu của toàn thể Hội Thánh đã được phát sinh.”2 Vì vậy, trong phụng vụ, Hội Thánh chủ yếu cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, qua mầu nhiệm đó Đức Ki-tô đã thực hiện công trình cứu độ chúng ta.

1068. Hội Thánh loan báo và cử hành mầu nhiệm này của Đức Ki-tô trong phụng vụ của mình, để các tín hữu được sống nhờ mầu nhiệm đó và làm chứng cho mầu nhiệm đó trong trần gian:

“Nhờ phụng vụ, nhất là trong hy tế Thánh Thể của Chúa, ‘công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện’. Phụng vụ góp phần rất nhiều để giúp các tín hữu, qua cuộc sống mình, diễn tả và biểu lộ cho người khác mầu nhiệm Đức Ki-tô và bản chất đích thực của Hội Thánh.”3

Thuật ngữ “phụng vụ” nghĩa là gì? (1069-1070)

1069. Thuật ngữ “phụng vụ” (“liturgia”), theo gốc chữ, có nghĩa là “công vụ”, “việc phục vụ nhân danh dân cho dân.” Trong truyền thống Ki-tô Giáo, thuật ngữ này có nghĩa là dân Thiên Chúa dự phần vào “công việc của Thiên Chúa.”4 Qua phụng vụ, Đức Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc và Thượng Tế của chúng ta, tiếp tục công trình cứu chuộc chúng ta trong Hội Thánh, với Hội Thánh và nhờ Hội Thánh của Người.

1070. 783

Thuật ngữ “phụng vụ” trong Tân Ước được dùng để chỉ không những việc cử hành phụng tự thần linh,5 mà còn cả việc loan báo Tin Mừng6 và việc thực thi bác ái.7 Trong tất cả những trường hợp này, vấn đề là phục vụ Thiên Chúa và phục vụ con người. Trong cử hành phụng vụ, Hội Thánh là người phục vụ, theo hình ảnh Chúa mình, là Đấng duy nhất “lo việc tế tự”,8 Hội Thánh được tham dự vào chức tư tế (phụng tự), tiên tri (loan báo) và vương đế (phục vụ bác ái) của Người:

“Vì thế, phụng vụ đáng được xem là việc thực thi trách vụ tư tế của Chúa Giê-su Ki-tô; trong đó, công cuộc thánh hóa con người được biểu thị bằng những dấu chỉ khả giác và được thực hiện cách riêng biệt theo từng dấu chỉ, và trong đó phụng tự công cộng vẹn toàn được thực thi bởi Nhiệm Thể Chúa Giê-su Ki-tô, nghĩa là bởi Đấng là Đầu cùng với các chi thể của Người. Do đó, mọi cử hành phụng vụ, vì là công trình của Đức Ki-tô tư tế và của Thân Thể Người là Hội Thánh, đều là hành động thánh thiêng tuyệt hảo, không có một hành động nào khác của Hội Thánh hữu hiệu bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp.”9

Phụng vụ xét như nguồn mạch sự sống (1071-1072)

1071. 1692

Phụng vụ, là công trình của Đức Ki-tô, cũng là hành động của Hội Thánh Người. Phụng vụ thực hiện và biểu thị Hội Thánh như dấu chỉ hữu hình của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người nhờ Đức Ki-tô. Phụng vụ dẫn các tín hữu vào sự sống mới của cộng đoàn. Phụng vụ đòi buộc mọi người phải tham dự “một cách ý thức, tích cực và có kết quả.”10

1072. “Phụng vụ không phải là tất cả hoạt động của Hội Thánh”:11 việc rao giảng Tin Mừng, đức tin và sự hối cải phải đi trước phụng vụ; lúc đó phụng vụ mới có thể mang lại hoa trái của mình trong đời sống các tín hữu: đời sống mới theo Chúa Thánh Thần, việc dấn thân vào sứ vụ của Hội Thánh và việc phục vụ cho sự hợp nhất của Hội Thánh.

Kinh nguyện và phụng vụ (1073)

1073. 2558

Phụng vụ còn là tham dự vào kinh nguyện của Đức Ki-tô dâng lên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Mọi kinh nguyện Ki-tô Giáo đều bắt nguồn và kết thúc trong phụng vụ. Nhờ phụng vụ, con người nội tâm được bén rễ sâu và đặt nền tảng12 trên tình yêu của Thiên Chúa, Đấng “rất mực yêu mến chúng ta” (Ep 2,4) trong Con yêu dấu của Ngài. Đây chính là “công trình kỳ diệu của Thiên Chúa”, là đời sống được hướng dẫn và được nội tâm hóa bởi mọi lời cầu nguyện, “mọi lúc trong Thần Khí” (Ep 6,18).

Việc dạy giáo lý và phụng vụ (1074-1075)

1074. “Phụng vụ là chóp đỉnh mà hoạt động của Hội Thánh vươn tới, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào tất cả sức mạnh của Hội Thánh.”13 Do đó, phụng vụ là chỗ rất đặc biệt để dạy giáo lý cho dân Thiên Chúa. “Dạy giáo lý, tự bản chất, gắn liền với mọi cử hành phụng vụ và bí tích, vì chính trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, Đức Ki-tô Giê-su hành động cách sung mãn để biến đổi con người.”14

Bài này đã được xem 5707 lần!

Pages ( 39 of 96 ): <1 ... 3738 39 4041 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]