1075. 426, 774
Việc dạy giáo lý trong phụng vụ nhằm đưa con người vào mầu nhiệm Đức Ki-tô (mystagon), dẫn từ hữu hình đến vô hình, từ dấu chỉ đến thực tại, từ “các bí tích” tới “các mầu nhiệm.” Việc trình bày như vậy là trách nhiệm của các sách địa phương và miền. Còn Sách này, nhằm phục vụ toàn thể Hội Thánh, trong đó có nhiều khác biệt về nghi thức và văn hóa,15 nên chỉ trình bày những gì là căn bản và chung cho toàn thể Hội Thánh liên quan tới phụng vụ xét như là mầu nhiệm và việc cử hành (Đoạn 1), rồi đến bảy bí tích và các á bí tích (Đoạn 2).
Đề mục
ĐOẠN THỨ NHẤT: NHIỆM CỤC BÍ TÍCH (1076-1209)
CHƯƠNG I: MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG THỜI ĐẠI CỦA HỘI THÁNH (1077-1134)
Mục 1: Phụng vụ – Công trình của Ba Ngôi Chí Thánh (1077-1112)
Mục 2: Mầu nhiệm Vượt Qua trong các bí tích của Hội Thánh (1113-1134)
CHƯƠNG II: CỬ HÀNH MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG CÁC BÍ TÍCH (1135-1209)
Mục 1: Cử hành phụng vụ của Hội Thánh (1136-1199)
Mục 2: Nhiều phụng vụ khác nhau và một mầu nhiệm duy nhất (1200-1209)
ĐOẠN THỨ HAI: BẢY BÍ TÍCH CỦA HỘI THÁNH (1210-1690)
CHƯƠNG I: CÁC BÍ TÍCH KHAI TÂM KI-TÔ GIÁO (1212-1419)
Mục 1: Bí tích Rửa Tội (1213-1284)
Mục 2: Bí tích Thêm Sức (1285-1321)
Mục 3: Bí tích Thánh Thể (1322-1419)
CHƯƠNG II: CÁC BÍ TÍCH CHỮA LÀNH (1420-1532)
Mục 4: Bí tích Thống Hối và Giao Hòa (1422-1498)
Mục 5: Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (1499-1532)
CHƯƠNG III: CÁC BÍ TÍCH PHỤC VỤ SỰ HIỆP THÔNG (1533-1666)
Mục 6: Bí tích Truyền Chức Thánh (1536-1600)
Mục 7: Bí tích Hôn Phối (1601-1666)
CHƯƠNG IV: NHỮNG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ KHÁC (1667-1690)
Mục 1: Các á bí tích (1667-1679)
Mục 2: An táng theo nghi thức Ki-tô Giáo (1680-1690)
Chú thích
1 X. Ep 3,4.
2 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 5: AAS 56 (1964) 99.
3 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 2: AAS 56 (1964) 97-98.
4 X. Ga 17,4.
5 X. Cv 13,2; Lc 1,23.
6 X. Rm 15,16; Pl 2,14-17.30.
7 X. Rm 15,27; 2 Cr 9,12; Pl 2,25.
8 X. Dt 8,2.6.
9 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 7: AAS 56 (1964) 101.
10 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 11: AAS 56 (1964) 103.
11 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 9: AAS 56 (1964) 101.
12 X. Ep 3,16-17.
13 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 10: AAS 56 (1964) 102.
14 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 23: AAS 71 (1979) 1296.
15 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 3-4: AAS 56 (1964) 98.
ĐOẠN THỨ NHẤT: NHIỆM CỤC BÍ TÍCH (1076-1209)
1076. 739
Ngày lễ Ngũ Tuần, nhờ việc tuôn ban Chúa Thánh Thần, Hội Thánh được biểu lộ cho trần gian.1 Hồng ân của Thần Khí khai mở một thời đại mới trong “việc phân phát các mầu nhiệm”: đó là thời đại của Hội Thánh, trong thời gian kéo dài này, Đức Ki-tô, nhờ phụng vụ của Hội Thánh Người, biểu lộ, làm hiện diện và truyền thông công trình cứu độ của Người “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26). Trong thời đại này của Hội Thánh, Đức Ki-tô từ nay sống và hành động trong và với Hội Thánh Người một cách mới, riêng cho thời đại mới này. Người hành động qua các bí tích; truyền thống chung của Hội Thánh, Đông phương cũng như Tây phương, gọi đó là “Nhiệm cục bí tích”: nhiệm cục này cốt tại việc truyền thông (hoặc “phân phát”) hoa trái của mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô trong việc cử hành phụng vụ “bí tích” của Hội Thánh.
Do đó, trước hết, cần phải trình bày “việc phân phát bí tích” (Chương một). Nhờ đó, chúng ta sẽ thấy rõ hơn bản chất và những khía cạnh cốt yếu của việc cử hành phụng vụ (Chương hai).
Đề mục
CHƯƠNG I: MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG THỜI ĐẠI CỦA HỘI THÁNH (1077-1134)
Mục 1: Phụng vụ – Công trình của Ba Ngôi Chí Thánh (1077-1112)
Mục 2: Mầu nhiệm Vượt Qua trong các bí tích của Hội Thánh (1113-1134)
CHƯƠNG II: CỬ HÀNH MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG CÁC BÍ TÍCH (1135-1209)
Mục 1: Cử hành phụng vụ của Hội Thánh (1136-1199)
Mục 2: Nhiều phụng vụ khác nhau và một mầu nhiệm duy nhất (1200-1209)
Chú thích
1 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 6: AAS 56 (1964) 100; Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 6.
CHƯƠNG I: MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG THỜI ĐẠI CỦA HỘI THÁNH (1077-1134)
Đề mục
Mục 1: Phụng vụ – Công trình của Ba Ngôi Chí Thánh (1077-1112)
Mục 2: Mầu nhiệm Vượt Qua trong các bí tích của Hội Thánh (1113-1134)
Mục 1: Phụng vụ – Công trình của Ba Ngôi Chí Thánh (1077-1112)
I. Chúa Cha, nguồn mạch và cùng đích của Phụng vụ (1077-1083)
1077. 492
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Ngài đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Ki-tô, Ngài đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Ngài, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1,3-6).
1078. 2626
“Chúc lành” là hành động thần linh ban sự sống, và nguồn gốc của hành động này là Chúa Cha. Việc chúc lành của Ngài vừa là một lời nói vừa là một hồng ân (bene-dictio, eu-logia). Khi áp dụng cho con người, từ này có nghĩa “chúc tụng”, nghĩa là tôn thờ và tạ ơn Đấng Tạo hóa của mình.
1079. Từ lúc khởi đầu cho đến lúc cùng tận thời gian, toàn bộ công trình của Thiên Chúa đều là chúc lành. Từ bài thơ phụng vụ về cuộc tạo dựng đầu tiên cho đến những thánh ca về thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc, các tác giả được linh hứng đều loan báo chương trình cứu độ như một lời chúc lành triền miên của Thiên Chúa.
1080. Từ lúc khởi đầu, Thiên Chúa đã chúc lành cho các sinh vật, đặc biệt cho người nam và người nữ. Giao ước với ông Noê và với tất cả mọi sinh vật canh tân lời chúc lành sinh sôi nảy nở này, bất chấp tội lỗi của con người đã khiến đất đai “bị chúc dữ.” Nhưng khởi từ tổ phụ Áp-ra-ham, lời chúc lành của Thiên Chúa mới đi sâu vào lịch sử loài người, một lịch sử đang hướng về cõi chết, để làm cho nó tiến về cõi sống, tiến về nguồn mạch của nó: nhờ đức tin của “cha các kẻ tin”, người đã đón nhận lời chúc lành, mà lịch sử cứu độ được khởi đầu.
1081. Những lời chúc lành của Thiên Chúa được bày tỏ qua các biến cố kỳ diệu và có ý nghĩa cứu độ: đó là việc sinh hạ I-xa-ác, việc xuất hành ra khỏi Ai Cập (Vượt Qua và Xuất Hành), việc trao ban Đất Hứa, việc tuyển chọn Đa-vít, sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ, cuộc lưu đày có ý nghĩa thanh luyện và sự hồi hương của “ít người còn sót lại.” Lề Luật, các Tiên tri và các Thánh vịnh, dệt nên phụng vụ của dân Chúa chọn, vừa nhắc nhớ những lời chúc lành của Thiên Chúa, vừa đáp lại những lời chúc lành đó bằng những câu ca ngợi và chúc tụng tạ ơn.
1082. Trong phụng vụ của Hội Thánh, lời chúc lành của Thiên Chúa được mặc khải và truyền thông cách sung mãn: Chúa Cha được nhận biết và được tôn thờ với tư cách là nguồn gốc và cùng đích của mọi chúc lành trong công trình tạo dựng và cứu độ; trong Ngôi Lời của Ngài, Đấng đã nhập thể, chịu chết và sống lại vì chúng ta, Chúa Cha đổ tràn trên chúng ta những lời chúc lành của Ngài, và nhờ Ngôi Lời, Ngài tuôn đổ vào lòng chúng ta hồng ân chứa đựng mọi hồng ân: đó là Chúa Thánh Thần.
1083. 2627, 1360
Như vậy, chúng ta hiểu được chiều kích kép của phụng vụ Ki-tô Giáo xét như lời đáp lại của đức tin và tình yêu đối với những lời “chúc lành thiêng liêng” Chúa Cha đã ban cho chúng ta. Một đàng, được kết hợp với Chúa của mình và dưới tác động của Chúa Thánh Thần,2 Hội Thánh chúc tụng Chúa Cha “vì phúc lộc khôn tả Ngài ban” (2 Cr 9,15), bằng việc tôn thờ, ca ngợi và tạ ơn. Đàng khác, cho tới khi kế hoạch của Thiên Chúa được hoàn tất, Hội Thánh không ngừng dâng lên Chúa Cha “lễ vật là những hồng ân Ngài ban”, và cầu khẩn Ngài ban Thánh Thần xuống trên lễ vật này, trên chính Hội Thánh, trên các tín hữu và trên toàn thể trần gian, để, nhờ hiệp thông vào sự chết và sự sống lại của Đức Ki-tô- Thượng tế, và nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, những lời chúc lành này của Thiên Chúa đem lại hoa trái sự sống “để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho ta” (Ep 1,6).
II. Công trình của Đức Ki-tô trong Phụng vụ (1084-1090)
Đức Ki-tô được tôn vinh… (1084-1085)
1084. 662, 1127
Đức Ki-tô, Đấng “ngự bên hữu Chúa Cha” và tuôn đổ Thánh Thần trên Thân Thể của Người là Hội Thánh, từ nay hoạt động qua các bí tích do chính Người thiết lập để truyền thông ân sủng của Người. Các bí tích là những dấu chỉ khả giác (các lời nói và các hành động) mà loài người chúng ta hiện nay vẫn có thể hiểu được. Các bí tích thực hiện cách hữu hiệu ân sủng mà chúng nói lên, nhờ hành động của Đức Ki-tô và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
1085. 519, 1165
Trong phụng vụ của Hội Thánh, Đức Ki-tô chủ yếu biểu lộ và hoàn thành mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Trong cuộc đời trần thế, Chúa Giê-su đã loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Người bằng lời giảng dạy và tham dự trước vào mầu nhiệm đó bằng các hành động của Người. Khi Giờ của Người đến,3 Chúa Giê-su đã sống biến cố độc nhất của lịch sử, một biến cố không qua đi: Chúa Giê-su chịu chết, chịu mai táng, sống lại từ cõi chết và ngự bên hữu Chúa Cha “một lần cho mãi mãi” (Rm 6,10; Dt 7,27; 9,12). Đó là biến cố xác thực, đã xảy ra trong lịch sử của chúng ta, nhưng là biến cố độc nhất. Tất cả những biến cố khác của lịch sử đã xảy ra một lần rồi qua đi, chìm vào dĩ vãng. Trái lại, mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô không thể chỉ tồn tại trong quá khứ, bởi vì chính Người đã dùng cái chết của Người mà hủy diệt sự chết, và bất cứ điều gì Đức Ki-tô là, bất cứ điều gì Người đã làm và đã chịu vì tất cả mọi người, những điều đó đều tham dự vào tính vĩnh cửu của Thiên Chúa, và như vậy, đều vượt trên mọi thời gian và luôn là hiện tại. Biến cố Thập Giá và Phục Sinh vẫn đang tồn tại và lôi kéo mọi sự tới sự sống.
… từ Hội Thánh thời các Tông Đồ… (1086-1087)
1086. 858
“Như Đức Ki-tô được Chúa Cha sai đi thế nào, thì chính Người cũng sai các Tông Đồ, được đầy tràn Thánh Thần, như vậy, không những để khi công bố Tin Mừng cho mọi thụ tạo, các Tông Đồ loan báo rằng Con Thiên Chúa đã nhờ sự chết và sự sống lại của Người, mà giải thoát chúng ta khỏi quyền lực Xa-tan và sự chết, và đưa chúng ta vào Nước của Chúa Cha, nhưng còn để các Tông Đồ thực thi công trình cứu độ, mà các ông đã rao giảng, nhờ Hy Lễ và các bí tích, là trung tâm điểm của toàn thể đời sống phụng vụ.”4
1087. 861, 1536
Như vậy, Đức Ki-tô Phục sinh, khi ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ, đã trao cho các ông quyền thánh hóa của Người:5 Các ông trở nên những dấu chỉ bí tích của Đức Ki-tô. Nhờ quyền năng của cùng một Chúa Thánh Thần, các ông trao quyền thánh hóa ấy cho những người kế nhiệm. Việc “kế nhiệm Tông Đồ” này xây dựng nên toàn bộ đời sống phụng vụ của Hội Thánh; chính việc kế nhiệm đó mang tính bí tích và được lưu truyền qua bí tích Truyền Chức thánh.
… đang hiện diện trong phụng vụ trần thế… (1088-1089)
1088. 776, 669, 1373
“Để thực hiện một công cuộc lớn lao như vậy (phân phát hoặc truyền thông công trình cứu độ của Người), Đức Ki-tô luôn hiện diện trong Hội Thánh Người, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện trong Hy tế Thánh lễ cũng như trong con người thừa tác viên, “Đấng xưa đã tự hiến trên thánh giá, thì nay chính Người dâng hiến qua thừa tác vụ của các tư tế”, và nhất là Người hiện diện dưới hình bánh hình rượu Thánh Thể. Người hiện diện bằng quyền năng của Người trong các bí tích, đến nỗi khi một ai đó làm Phép Rửa, thì đó là chính Đức Ki-tô làm Phép Rửa. Người hiện diện trong Lời của Người, vì chính là Người đang nói, khi Kinh Thánh được đọc lên trong Hội Thánh. Cuối cùng, Người hiện diện khi Hội Thánh cầu nguyện và hát Thánh vịnh, như chính Người đã hứa: ‘Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ’ (Mt 18,20).”6
1089. 796
“Trong công cuộc lớn lao như vậy, qua đó Thiên Chúa được tôn vinh cách hoàn hảo và con người được thánh hóa, Đức Ki-tô hằng liên kết với Hội Thánh là Hiền Thê rất yêu quý của Người, và Hội Thánh kêu cầu Người là Chúa của mình và nhờ Người mà phụng thờ Chúa Cha hằng hữu.”7
… Phụng vụ trần thế tham dự vào phụng vụ trên trời (1090)
1090. 1137-1139
“Trong phụng vụ trần thế, chúng ta tham dự như một cách nếm trước phụng vụ trên trời, được cử hành trong thành thánh Giê-ru-sa-lem, nơi chúng ta là lữ khách đang tiến về, ở đó, Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, là thừa tác viên của cung thánh, và của nhà tạm đích thực; chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa; chúng ta kính nhớ các Thánh, và hy vọng được đồng phận với các ngài; chúng ta mong đợi Đấng Cứu Độ là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, cho đến khi Người, là sự sống của chúng ta, xuất hiện, và chúng ta sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.”8
III. Chúa Thánh Thần và Hội Thánh trong Phụng vụ (1091-1109)
1091. 798
Trong phụng vụ, Chúa Thánh Thần là nhà sư phạm về đức tin cho Dân Thiên Chúa, là Đấng thực hiện “những kỳ công của Thiên Chúa”, tức là các bí tích của Giao Ước Mới. Điều Chúa Thánh Thần mong muốn và thực hiện trong lòng Hội Thánh, đó là chúng ta được sống bằng sự sống của Đức Ki-tô phục sinh. Khi Chúa Thánh Thần gặp được nơi chúng ta lời đáp lại của đức tin mà Ngài đã khơi lên, thì đó là một sự cộng tác thật sự. Vì vậy, phụng vụ là công trình chung của Chúa Thánh Thần và Hội Thánh.
1092. 737
Trong việc phân phát cách bí tích mầu nhiệm của Đức Ki-tô, Chúa Thánh Thần cũng hành động cùng một cách thức như trong các thời đại khác của Nhiệm cục cứu độ: Ngài chuẩn bị cho Hội Thánh gặp gỡ Chúa của mình; Ngài nhắc nhớ và làm tỏ hiện Đức Ki-tô cho đức tin của cộng đoàn; Ngài làm cho hiện diện và hiện tại hóa mầu nhiệm của Đức Ki-tô bằng quyền năng biến đổi của Ngài; sau cùng, Thánh Thần của sự hiệp thông kết hợp Hội Thánh vào đời sống và sứ vụ của Đức Ki-tô.
Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho việc đón nhận Đức Ki-tô (1093-1098)
1093. 762, 121, 2585, 1081
Trong Nhiệm cục bí tích, Chúa Thánh Thần hoàn tất các hình bóng của Cựu Uớc. Bởi vì Hội Thánh của Đức Ki-tô “đã được chuẩn bị cách kỳ diệu trong lịch sử dân Ít-ra-en và trong Cựu Ước”,9 nên phụng vụ của Hội Thánh giữ lại một số yếu tố của phụng tự Cựu Ước, xét như một phần không thể thiếu và không thể thay thế, coi đó là của mình:
– Chủ yếu là việc đọc Cựu Ước;
– lời cầu nguyện của các Thánh vịnh;
– và nhất là tưởng nhớ các biến cố cứu độ và những thực tại đầy ý nghĩa đã được hoàn tất trong mầu nhiệm của Đức Ki-tô (Lời Hứa và Giao Ước, Xuất Hành và Vượt Qua, Vương Quốc và Đền Thờ, Lưu Đày và Hồi Hương).
1094. 128-130
Chính trên sự hòa hợp này giữa hai Giao Ước,10 mà giáo lý về cuộc Vượt Qua của Chúa được xây dựng,11 rồi đến giáo lý của các Tông Đồ và của các Giáo phụ. Giáo lý này khai mở những điều còn bị che giấu trong văn tự của Cựu Ước: đó là mầu nhiệm của Đức Ki-tô. Cách giải thích này được gọi là “tiên trưng”, vì nó cho thấy sự mới mẻ của Đức Ki-tô khởi từ những “hình bóng” (biểu trưng) loan báo về Người qua các sự kiện, lời nói và biểu tượng của Giao ước cũ. Nhờ việc đọc lại Cựu Ước trong Thánh Thần chân lý khởi đi từ Đức Ki-tô, các hình bóng được biểu lộ ra.12 Chẳng hạn, cơn lụt hồng thủy và con tàu ông Nô-ê là hình bóng báo trước ơn cứu độ nhờ bí tích Rửa Tội;13 cột mây và việc vượt qua Biển Đỏ cũng cùng ý nghĩa đó; nước từ tảng đá là hình bóng các hồng ân thiêng liêng của Đức Ki-tô;14 manna trong hoang địa là hình bóng tiên báo Thánh Thể, “Bánh bởi trời, bánh đích thực” (Ga 6,32).
1095. 281, 117
Vì vậy, đặc biệt trong mùa Vọng, mùa Chay và nhất là đêm Canh thức Vượt Qua, Hội Thánh đọc lại và sống trở lại tất cả các biến cố lớn lao đó của lịch sử cứu độ trong “ngày hôm nay” của phụng vụ của mình. Nhưng điều đó cũng đòi hỏi việc dạy giáo lý phải giúp các tín hữu mở rộng tâm hồn để hiểu được ý nghĩa “thiêng liêng” ấy của Nhiệm cục cứu độ, đúng như phụng vụ của Hội Thánh bày tỏ và giúp chúng ta sống.
1096. 1174, 1352, 840
Phụng vụ Do-thái và Phụng vụ Ki-tô Giáo. Việc hiểu biết rõ hơn về đức tin và đời sống tôn giáo của dân Do-thái, như họ tuyên xưng và sống cho đến nay, có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn một số khía cạnh của phụng vụ Ki-tô Giáo. Đối với người Do-thái cũng như với Ki-tô hữu, Kinh Thánh là phần cốt yếu của cả hai nền phụng vụ: công bố Lời Chúa, đáp lại Lời Chúa, kinh nguyện ca ngợi và chuyển cầu cho người sống và kẻ chết, sự khẩn cầu lòng thương xót Chúa. Phụng vụ Lời Chúa, trong cơ cấu đặc trưng của nó, bắt nguồn từ phụng vụ Do-thái. Các Giờ Kinh phụng vụ cũng như các bản văn và công thức phụng vụ khác, cũng song song với phụng vụ Do-thái, kể cả các kinh nguyện đáng kính nhất của chúng ta, như kinh “Lạy Cha.” Các Kinh nguyện Thánh Thể cũng được cảm hứng từ những kiểu mẫu của truyền thống Do-thái. Liên hệ giữa phụng vụ Do-thái và phụng vụ Ki-tô Giáo, kể cả những khác biệt trong nội dung, có thể thấy rõ cách đặc biệt trong các ngày lễ lớn của Năm phụng vụ, như lễ Vượt Qua. Các Ki-tô hữu và người Do-thái cùng cử hành lễ Vượt Qua: đối với người Do-thái đó là lễ Vượt Qua của lịch sử hướng tới tương lai; còn đối với các Ki-tô hữu, lễ Vượt Qua đã được hoàn thành trong sự chết và sự sống lại của Đức Ki-tô, tuy vẫn luôn trông đợi sự hoàn tất chung cuộc.
Bài này đã được xem 5602 lần!