GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

1097. Trong phụng vụ của Giao Ước Mới, mọi hoạt động phụng vụ, đặc biệt việc cử hành thánh lễ và các bí tích, đều là cuộc gặp gỡ giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh. Cộng đoàn phụng vụ được hợp nhất “nhờ ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần”, Đấng quy tụ các con cái Thiên Chúa trong Thân Thể duy nhất của Đức Ki-tô. Cộng đoàn này vượt trên các mối liên hệ phàm nhân, chủng tộc, văn hóa và xã hội.

1098. 1430

Cộng đoàn phải chuẩn bị để gặp gỡ Chúa mình, sao cho là một dân đã hoàn toàn sẵn sàng.15 Việc chuẩn bị các tâm hồn như vậy là công việc chung của Chúa Thánh Thần và của cộng đoàn, đặc biệt là của các thừa tác viên của cộng đoàn. Ân sủng của Chúa Thánh Thần tìm cách khơi dậy đức tin, sự hối cải tâm hồn và sự đồng thuận theo thánh ý Chúa Cha. Phải có những chuẩn bị này để có thể đón nhận những ân sủng khác được truyền thông trong chính việc cử hành, và các hoa trái của cuộc sống mới mà việc cử hành nhắm sản sinh ra sau đó.

Chúa Thánh Thần nhắc nhớ mầu nhiệm Đức Ki-tô (1099-1103)

1099. 91

Chúa Thánh Thần và Hội Thánh cùng cộng tác để Đức Ki-tô và công trình cứu độ của Người được biểu lộ trong phụng vụ. Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, và một cách tương tự trong các bí tích khác, phụng vụ là Sự Tưởng niệm mầu nhiệm cứu độ. Chúa Thánh Thần là ký ức sống động của Hội Thánh.16

1100. 1134, 103, 131

Lời Chúa. Trước hết, Chúa Thánh Thần gợi cho cộng đoàn phụng vụ nhớ lại ý nghĩa của biến cố cứu độ khi Ngài ban sức sống cho Lời Chúa đang được loan báo, để chúng ta có thể đón nhận và sống Lời Chúa:

“Trong cử hành phụng vụ, Thánh Kinh là hết sức quan trọng. Thật vậy, những bài trích từ Thánh Kinh được đọc lên, rồi được giải thích trong bài giảng, những Thánh vịnh trong Thánh Kinh được hát lên; và do sự gợi hứng và thúc đẩy của Thánh Kinh mà những lời kinh, lời nguyện và các bài phụng ca tuôn trào; và cũng từ Thánh Kinh mà các hành động cũng như các dấu chỉ có được ý nghĩa của chúng.”17

1101. 117

Chúa Thánh Thần ban cho người đọc cũng như người nghe, tùy theo việc họ chuẩn bị tâm hồn, sự hiểu biết thiêng liêng về Lời Chúa. Qua các lời, các hành động và các biểu tượng, dệt thành việc cử hành, Chúa Thánh Thần đưa các tín hữu và các thừa tác viên vào trong tương quan sống động với Đức Ki-tô, là Lời và Hình Ảnh của Chúa Cha, để họ có thể làm sao cho ý nghĩa của các điều họ nghe, họ chiêm ngắm và họ hành động trong cuộc cử hành, được đưa vào trong đời sống của họ.

1102. 143

“Chính Lời của ơn cứu độ nuôi dưỡng đức tin trong tâm hồn các tín hữu; nhờ đức tin đó mà cộng đoàn các tín hữu khởi đầu và lớn lên.”18 Việc loan báo Lời Chúa không dừng lại nơi một lời giảng dạy nào đó: nó đòi hỏi sự đáp lại của đức tin, xét như một ưng thuận và dấn thân, để có một Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài. Chúa Thánh Thần còn ban ơn đức tin, củng cố và làm tăng trưởng đức tin trong cộng đoàn. Cộng đoàn phụng vụ trước hết là sự hiệp thông trong đức tin.

1103. 1362

Kinh Tưởng niệm (Anamnesis). Việc cử hành phụng vụ luôn quy chiếu về những lần can thiệp cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử. “Nhiệm cục mặc khải này được thực hiện bằng các việc làm và lời nói có liên hệ mật thiết với nhau, theo nghĩa là… các lời… công bố các việc làm và làm sáng tỏ mầu nhiệm được chứa đựng trong đó.”19 Trong phụng vụ Lời Chúa, Chúa Thánh Thần “nhắc” cho cộng đoàn “nhớ” tất cả những gì Đức Ki-tô đã làm cho chúng ta. Theo bản chất của các hành động phụng vụ và theo các truyền thống nghi lễ của các Giáo hội, việc cử hành “nhắc nhớ lại” kỳ công của Thiên Chúa trong phần Tưởng niệm (Anamnesis) được triển khai dài hay ngắn. Chúa Thánh Thần, Đấng nhắc cho Hội Thánh nhớ lại như vậy, cũng thúc giục Hội Thánh tạ ơn và ca ngợi (Doxologia).

Chúa Thánh Thần hiện tại hóa mầu nhiệm Đức Ki-tô (1104-1107)

1104. 1085

Phụng vụ Ki-tô Giáo không những gợi nhớ các biến cố đã giải thoát chúng ta, mà còn làm cho các biến cố đó hiện diện và tác động trong hiện tại. Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô được cử hành, chứ không phải được tái diễn; chỉ có các cuộc cử hành là được tái diễn; trong mỗi lần cử hành đều có sự tuôn đổ Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho mầu nhiệm duy nhất được hiện tại hóa.

1105. 1153

Kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis – “khẩn cầutrên”) là lời khẩn cầu của vị tư tế nài xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần, Đấng Thánh Hóa đến, để các lễ vật trở thành Mình và Máu Đức Ki-tô, và khi lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, chính các tín hữu cũng trở thành lễ vật sống động dâng lên Thiên Chúa.

1106. 1375

Cùng với kinh Tưởng Niệm (Anamnesis), kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis) nằm ở trung tâm mỗi cuộc cử hành bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể:

“Bạn hỏi: làm thế nào Bánh trở nên Mình Đức Ki-tô và Rượu trở nên Máu Đức Ki-tô? Tôi xin thưa với bạn: Chúa Thánh Thần ngự đến và thực hiện những điều đó, những điều vượt trên mọi lời nói và mọi tư tưởng… Bạn chỉ cần nghe biết đó là bởi Chúa Thánh Thần; cũng như do Mẹ Thiên Chúa và bởi Chúa Thánh Thần, Chúa đã nhận lấy xác phàm cho Người và nơi chính mình Người.”20

1107. 2816

Quyền năng biến đổi của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ làm cho Nước Chúa mau đến và mầu nhiệm cứu độ chóng hoàn tất. Trong việc chờ đợi và trong niềm hy vọng, Ngài thật sự làm cho chúng ta được tham dự trước vào sự hiệp thông sung mãn của Thiên Chúa Ba Ngôi. Được Chúa Cha, Đấng nhận lời khẩn cầu của Hội Thánh, sai đến, Chúa Thánh Thần ban sự sống cho những ai đón nhận Ngài và ngay từ bây giờ, đối với những kẻ ấy, Ngài là “bảo chứng” phần gia nghiệp của họ.21

Ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần (1108-1109)

1108. 788, 1091, 775

Mục đích của sứ vụ Chúa Thánh Thần trong mọi hoạt động phụng vụ là để chúng ta được hiệp thông với Đức Ki-tô để làm nên Thân Thể Người. Chúa Thánh Thần như nhựa sống trong cây nho của Chúa Cha, mang lại hoa trái nơi các ngành nho.22 Trong phụng vụ, sự cộng tác mật thiết giữa Chúa Thánh Thần và Hội Thánh được thực hiện. Chính Ngài, Thần Khí của sự hiệp thông, luôn hiện diện trong Hội Thánh, và do đó, Hội Thánh là bí tích lớn của sự hiệp thông của Thiên Chúa, một bí tích quy tụ các con cái Thiên Chúa còn đang tản mác. Hoa trái của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ là, một cách không thể tách rời, sự hiệp thông với Ba Ngôi Chí Thánh và sự hiệp thông huynh đệ.23

1109. 1368

Kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis) cũng là lời nguyện xin cho cộng đoàn được hiệp thông trọn vẹn trong mầu nhiệm Đức Ki-tô. “Ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2 Cr 13,13) phải luôn ở với chúng ta và đem lại hiệu quả vượt ra ngoài lúc cử hành thánh lễ. Vì vậy, Hội Thánh cầu xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến để Ngài làm cho đời sống các tín hữu trở thành của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa, nhờ sự biến đổi thiêng liêng theo hình ảnh Đức Ki-tô, nhờ chăm lo cho sự hợp nhất của Hội Thánh và nhờ tham dự vào sứ vụ của Hội Thánh bằng việc làm chứng và phục vụ bác ái.

Tóm lược (1110-1112)

1110. Trong phụng vụ của Hội Thánh, Chúa Cha được chúc tụng và tôn thờ với tư cách là nguồn mạch mọi chúc lành trong công trình tạo dựng và cứu độ; qua đó Ngài đã chúc lành cho chúng ta trong Con của Ngài để ban Thần Khí nghĩa tử cho chúng ta.

1111. Công trình của Đức Ki-tô trong phụng vụ mang tính bí tích bởi vì mầu nhiệm cứu độ của Người được quyền năng Chúa Thánh Thần làm cho hiện diện; bởi vì Thân Thể của Người là Hội Thánh cũng là bí tích (dấu chỉ và dụng cụ) nhờ đó Chúa Thánh Thần ban phát mầu nhiệm cứu độ; và bởi vì Hội Thánh lữ hành, qua các hành động phụng vụ của mình, được tham dự như nếm trước Phụng vụ thiên quốc.

1112. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ của Hội Thánh là chuẩn bị cho cộng đoàn gặp gỡ Đức Ki-tô; là nhắc nhớ và làm tỏ hiện Đức Ki-tô cho đức tin của cộng đoàn; là, nhờ quyền năng biến đổi của Ngài, làm cho công trình cứu độ của Đức Ki-tô hiện diện và tác động trong hiện tại, và làm cho hồng ân hiệp thông được sinh hoa kết quả trong Hội Thánh.


Chú thích

2 X. Lc 10,21.

3 X. Ga 13,1; 17,1.

4 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 6: AAS 56 (1964) 100.

5 X. Ga 20,21-23.

6 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 7: AAS 56 (1964) 100-101.

7 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 7: AAS 56 (1964) 101.

8 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 8: AAS 56 (1964) 101; x. Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 50: AAS 57 (1965) 55-57.

9 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 6.

10 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 14-16: AAS 58 (1966) 824-825.

11 X. Lc 24,13-49.

12 X. 2 Cr 3,14-16.

13 X. 1 Pr 3,21.

14 X. 1 Cr 10,1-6.

15 X. Lc 1,17.

16 X. Ga 14,26.

17 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 24: AAS 56 (1964) 106-107.

18 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 4: AAS 58 (1966) 996.

19 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 2: AAS 58 (1966) 818.

20 Thánh Gio-an thành Đa-mát, Expositio fidei, 86 [De fide orthodoxa, 4, 13] : PTS 12,194-195 (PG 94,1141.1145).

21 X. Ep 1,14; 2 Cr 1,22.

22 X. Ga 15,1-17 ; Gl 5,22.

23 X. 1 Ga 1,3-7.

 

Mục 2: Mầu nhiệm Vượt Qua trong các bí tích của Hội Thánh (1113-1134)

1113. 1210

Toàn bộ đời sống phụng vụ của Hội Thánh xoay quanh Hy tế Thánh Thể và các bí tích.24 Trong Hội Thánh có bảy bí tích: Rửa Tội, Thêm Sức hay Xức Dầu Thánh, Thánh Thể, Thống Hối, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức Thánh và Hôn Phối.25 Trong mục này, sẽ bàn đến đặc tính chung về tín lý của bảy bí tích của Hội Thánh. Những đặc tính chung về việc cử hành sẽ được trình bày ở chương II, và những điểm đặc thù của từng bí tích sẽ được trình bày ở đoạn II.

I. Các bí tích của Đức Ki-tô (1114-1116)

1114. “Dựa vào giáo lý của các Sách Thánh, vào các truyền thống Tông Đồ… và sự đồng tâm nhất trí của các Giáo phụ”,26 chúng tôi tuyên xưng rằng “tất cả các bí tích của Luật Mới… đều do Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta thiết lập.”27

1115. 512-560

Những lời nói và hành động của Chúa Giê-su, trong quãng đời ẩn dật cũng như trong thừa tác vụ công khai của Người, đều có tính chất cứu độ. Chúng tham dự trước vào quyền năng của mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Chúng loan báo và chuẩn bị những gì Người sẽ ban cho Hội Thánh khi mọi sự được hoàn tất. Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô là nền tảng cho những gì Người ban phát trong các bí tích nhờ các thừa tác viên của Hội Thánh Người, bởi vì “điều hữu hình nơi Đấng cứu độ chúng ta được chuyển vào trong các bí tích.”28

1116. 1504, 774

Là “những năng lực phát ra” từ thân thể Đức Ki-tô,29 Đấng hằng sống và ban sự sống, là những hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong thân thể Đức Ki-tô là Hội Thánh, các bí tích là “những kỳ công của Thiên Chúa” trong Giao Ước mới và vĩnh cửu.

II. Các bí tích của Hội Thánh (1117-1121)

1117. 120

Nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn đưa Hội Thánh vào “sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13), Hội Thánh dần dần nhận ra kho tàng này mà mình đã lãnh nhận từ Đức Ki-tô và xác định việc “ban phát” kho tàng ấy, cũng như Hội Thánh đã làm với Thư Quy các Sách Thánh và giáo lý đức tin, với tư cách là người quản lý trung tín các mầu nhiệm của Thiên Chúa.30 Vì vậy, theo dòng thời gian, Hội Thánh xác định trong số các cử hành phụng vụ của mình, có bảy cử hành là những bí tích, theo nghĩa hẹp của từ này, do Chúa thiết lập.

1118. 1396

Các bí tích là “của Hội Thánh” theo hai nghĩa: chúng là “do Hội Thánh” và “cho Hội Thánh.” Các bí tích là “do Hội Thánh” bởi vì Hội Thánh là bí tích của hành động của Đức Ki-tô Đấng đang hoạt động trong Hội Thánh nhờ sứ vụ của Chúa Thánh Thần. Và các bí tích là “cho Hội Thánh”, “nhờ chúng mà Hội Thánh được xây dựng”31 bởi vì chúng biểu lộ và truyền thông cho con người, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của sự hiệp thông của Thiên Chúa-Tình Yêu, Đấng là Một Chúa Ba Ngôi.

1119. 792

Hội Thánh, cùng với Đức Ki-tô là Đầu làm nên như “một con người mầu nhiệm”,32 hành động trong các bí tích với tư cách là “cộng đoàn tư tế” “có tổ chức.”33 Nhờ bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, dân tư tế có khả năng cử hành phụng vụ; ngoài ra, có một số Ki-tô hữu, được lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh, “được thiết đặt nhân danh Đức Ki-tô để chăn dắt Hội Thánh bằng lời và ân sủng của Thiên Chúa.”34

1120. 1547

Thừa tác vụ có chức thánh hay “chức tư tế thừa tác35 là để phục vụ chức tư tế do bí tích Rửa Tội. Chức tư tế thừa tác bảo đảm rằng trong các bí tích, chính Đức Ki-tô hành động nhờ Chúa Thánh Thần cho Hội Thánh. Sứ vụ cứu độ mà Chúa Cha ủy thác cho Chúa Con khi xuống thế làm người, được trao cho các Tông Đồ và qua các ngài cho những người kế nhiệm các ngài: những vị này lãnh nhận Thánh Thần của Chúa Giê-su để hành động nhân danh Người và trong cương vị của Người.36 Như vậy, thừa tác vụ có chức thánh là sợi dây mang tính bí tích nối kết hành động phụng vụ với những gì các Tông Đồ đã nói và đã làm, và qua các Tông Đồ, với những gì Đức Ki-tô, Đấng là nguồn mạch và nền tảng của các bí tích, đã nói và đã làm.

1121. 1272, 1304, 1582

Ba bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh, ngoài việc trao ban ân sủng, còn ban một dấu ấn bí tích hoặc “ấn tín”, nhờ đó, Ki-tô hữu được tham dự vào chức tư tế của Đức Ki-tô và là thành phần trong Hội Thánh theo những bậc sống và những phận vụ khác nhau. Việc đồng hình đồng dạng như vậy với Đức Ki-tô và với Hội Thánh, do Chúa Thánh Thần thực hiện, là không thể bị tẩy xóa,37 nhưng tồn tại mãi mãi trong Ki-tô hữu, với tính cách một sự chuẩn bị tích cực để đón nhận ân sủng, với tính cách một lời hứa và bảo chứng được Thiên Chúa che chở, và với tính cách một ơn gọi để phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ Hội Thánh. Vì vậy, các bí tích này không bao giờ có thể được tái ban.

III. Các bí tích của đức tin (1122-1126)

1122. 849, 1236

Đức Ki-tô đã sai các Tông Đồ của Người đi để “nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân… kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47). “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Mt 28,19). Sứ vụ làm Phép Rửa, tức là sứ vụ bí tích, được bao hàm trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, bởi vì bí tích được chuẩn bị bằng Lời Chúa và bằng đức tin, là sự ưng thuận vâng theo Lời đó:

“Dân Thiên Chúa được quy tụ trước tiên bằng Lời của Thiên Chúa hằng sống… Chính thừa tác vụ bí tích đòi phải có việc rao giảng Lời Chúa, bởi vì các bí tích là bí tích của đức tin, một đức tin được sinh ra và được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa.”38

1123. 1154

“Các bí tích có mục đích thánh hóa con người, xây dựng thân thể Đức Ki-tô và sau cùng là thờ phượng Thiên Chúa; là những dấu chỉ, chúng còn có mục đích giáo huấn nữa. Các bí tích không những giả thiết phải có đức tin trước, mà chúng còn nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin bằng các lời đọc và các nghi thức; bởi vậy, chúng được gọi là các bí tích của đức tin”39.

1124. 166, 1327, 78

Đức tin của Hội Thánh có trước đức tin của tín hữu, là người được mời gọi gắn bó với đức tin của Hội Thánh. Khi cử hành các bí tích, Hội Thánh tuyên xưng đức tin đã lãnh nhận từ các Tông Đồ. Từ đó có câu thành ngữ cổ: “Lex orandi, lex credendi”, nghĩa là “Luật cầu nguyện, luật đức tin” (hay như lời Ông Prospêrô Aquitanô, vào thế kỷ thứ 5: “Legem credendi lex statuat supplicandi”, nghĩa là “Luật của việc khẩn cầu ấn định luật của đức tin”).40 Luật của việc cầu nguyện là luật của đức tin. Hội Thánh tin như Hội Thánh cầu nguyện. Phụng vụ là yếu tố cấu thành của Truyền Thống thánh thiện và sống động.41

1125. 1205

Vì vậy, không một nghi thức bí tích nào có thể được sửa đổi hay tùy tiện thêm bớt theo sở thích của thừa tác viên hay cộng đoàn. Chính thẩm quyền tối cao của Hội Thánh cũng không thể thay đổi phụng vụ theo sở thích của mình, nhưng chỉ được làm vậy trong sự vâng phục đức tin và tôn kính cách đạo hạnh mầu nhiệm của phụng vụ.

1126. 815

Ngoài ra, bởi vì các bí tích diễn tả và phát huy sự hiệp thông đức tin trong Hội Thánh, nên luật cầu nguyện (lex orandi) là một trong những tiêu chuẩn cốt yếu của việc đối thoại nhằm tái lập sự hợp nhất các Ki-tô hữu.42

IV. Các bí tích của ơn cứu độ (1127-1129)

1127. 1084, 1105, 696

Khi được cử hành cách xứng đáng trong đức tin, các bí tích ban ân sủng mà chúng biểu lộ.43 Các bí tích đều hữu hiệu, bởi vì chính Đức Ki-tô hành động trong chúng: chính Người là Đấng rửa tội, chính Người là Đấng hành động trong các bí tích của Người để truyền thông ân sủng mà bí tích biểu lộ. Chúa Cha luôn nhận lời cầu nguyện của Hội Thánh của Con Ngài, vì trong kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis) của mỗi bí tích, Hội Thánh biểu lộ đức tin của mình vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Cũng như lửa biến đổi mọi thứ nó chạm tới thành lửa, Chúa Thánh Thần cũng biến đổi những gì được trao phó cho quyền năng của Ngài thành sự sống thần linh.

1128. 1584

Đây là ý nghĩa của điều Hội Thánh khẳng định:44 các bí tích hữu hiệu “do sự” – ex opere operato – (do chính hành động bí tích được thực hiện) nghĩa là chúng hữu hiệu nhờ công trình cứu độ của Đức Ki-tô đã được hoàn thành một lần cho mãi mãi. Từ đó, có hệ luận này là: “Bí tích không mang lại hiệu quả nhờ sự công chính của người trao ban hay người lãnh nhận, nhưng nhờ quyền năng của Thiên Chúa.”45 Khi một bí tích được cử hành theo đúng ý hướng của Hội Thánh, thì quyền năng của Đức Ki-tô và của Thần Khí Người hành động trong và qua bí tích ấy, chứ không lệ thuộc vào sự thánh thiện bản thân của thừa tác viên. Tuy nhiên, các hoa trái của các bí tích cũng tùy thuộc vào sự chuẩn bị nội tâm của người lãnh nhận.

Bài này đã được xem 5717 lần!

Pages ( 41 of 96 ): <1 ... 3940 41 4243 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]